Chuyển Pháp Luân, quyển II
Kiên định

堅定

有師在信心十足之,無師在而無興修乎,似為師而修,為興而來,此乃中士之一大弊也。釋迦、耶穌、老子、孔子一去二千有餘,其弟子從未覺師不在而無可修。修乃自身之事,無人可代之,為師者表面只訴其法理。修心斷慾、明慧不惑乃自負。為興而來,心必不堅,入世俗則必忘其本。如不固守其念,一生無得。不知何時再成機緣,難也!

Kiên định

Hữu Sư tại tín tâm thập túc chi, vô Sư tại nhi vô hứng tu hồ, tự vi Sư nhi tu, vi hứng nhi lai, thử nãi trung sĩ chi nhất đại tệ dã. Thích Ca, Gia Tô, Lão Tử, Khổng Tử nhất khứ nhị thiên hữu dư, kỳ đệ tử tùng vị giác sư bất tại nhi vô khả tu. Tu nãi tự thân chi sự, vô nhân khả đại chi, vi sư giả biểu diện chỉ tố kỳ Pháp Lý. Tu tâm đoạn dục, minh huệ bất hoặc nãi tự phụ. Vi hứng nhi lai, tâm tất bất kiên, nhập thế tục tắc tất vong kỳ bản. Như bất cố thủ kỳ niệm, nhất sinh vô đắc. Bất tri hà thời tái thành cơ duyên, nan dã!

Kiên định

Có Sư phụ ở đây thì tín tâm mười phần đầy đủ, không có Sư phụ ở đây thì không có hứng tu; cứ như là vì Sư phụ mà tu, vì hứng thú mà đến; ấy là chỗ yếu rất lớn của kẻ ‘trung sỹ’. Thích Ca, Jesus, Lão Tử, Khổng Tử đã ra đi hơn 2000 năm rồi, nhưng đệ tử của họ xưa nay không cảm thấy rằng không có sư phụ ở đó thì không thể tu. Tu ấy là việc của bản thân mình; không ai làm thay; người làm sư phụ về bề mặt chỉ là bảo cho họ Pháp Lý. Tu tâm đoạn dục, minh huệ bất hoặc ấy là trách nhiệm của tự mình. Vì hứng thú mà đến, tâm ắt không vững, nhập thế tục liền quên mất cái gốc này. Nếu không giữ vững niệm ấy, cả đời sẽ không được [gì]. Không biết bao giờ mới có lại có cơ duyên, khó lắm thay!


● ● ● ● ● ● ● ● ●

Ghi chú: (mọi ghi chú đều của người dịch, chỉ chú định diễn nghĩa bề mặt, không phải chính văn, chỉ có tác dụng tham khảo).

Dịch ngày 18-2-2008.

thế tục: cõi trần tục, phàm tục, tức là nói về cái thế gian con người này.
trung sỹ: kẻ sỹ bậc trung; so với thượng sỹhạ sỹ.
tu tâm đoạn dục, minh huệ bất hoặc: tu sửa tâm, cắt đứt các dục vọng, sáng tỏ trí huệ, không nghi hoặc (diễn trên chữ nghĩa).