Chuyển Pháp Luân Pháp Giải

轉法輪法解

* * * * * * * * *

本《法解》是初期傳法時,針對新學員解答的比較粗淺法解,在層次上有侷限性,所以僅供新學員參考用。

Cuốn «Pháp giải» là lúc mới đầu truyền Pháp, là Pháp giải tương đối nông cạn giải đáp nhắm vào học viên mới, về tầng thứ có tính cuộc hạn, cho nên chỉ dành cho học viên mới dùng làm tham khảo.

李洪志
一九九七年七月十六日

Lý Hồng Chí
16 tháng Bảy, 1997
 

* * * * * * * * *

MỤC LỤC

Giảng Pháp trong buổi ra mắt cuốn «Chuyển Pháp Luân» tại Bắc Kinh

Giải đáp thắc mắc tại giảng Pháp ở Trường Xuân

Giải đáp thắc mắc tại giảng Pháp ở Trịnh Châu

Giải đáp thắc mắc tại giảng Pháp ở Tế Nam

Giải đáp thắc mắc tại giảng Pháp ở Diên Cát

Giải đáp thắc mắc tại giảng Pháp ở Quảng Châu

* * * * * * * * *

Giảng Pháp trong buổi ra mắt cuốn «Chuyển Pháp Luân» tại Bắc Kinh

北京《轉法輪》首發式上講法

Giảng Pháp trong buổi ra mắt cuốn «Chuyển Pháp Luân» tại Bắc Kinh

李洪志
一九九五年一月四日

Lý Hồng Chí
4 tháng Giêng, 1995

首先問大家新年好!

Trước tiên chúc mọi người một năm mới tốt đẹp!

我們在座的有一些是老學員,有一些還是屬於沒有參加過學習班的,但是對我們法輪大法都有一定的認識。剛才我們的工作人員對法輪大法在一九九四年的工作做了一個總結。存在的一些問題大體上也講了,不足哪,我們有待於在今後的工作中,在大法的建設上改進。目前,從我們整個功法的發展形勢來看,是呈現著一種急劇擴大的趨向,影響越來越大,直線上升,傳的速度非常快。因為我從傳功開始到現在,也不過就是兩年多的時間。而開始講法是以氣功低層次祛病健身的形式在傳,因為得叫大家有個認識過程。一出來的時候,我說我出來的目地,就是往高層次上傳功,往高層次上帶人,真正高層次上修煉的這些東西還沒有人講。當然,開始我們還是以氣功這種低形式的東西在傳,目地是讓大家先有一個認識過程。特別是近一年,我基本上就是在講法了,所以我們學員都知道,我談的層次比較高,講的問題都是別人講不了的東西,談到了真正修煉,如何修煉的問題了。因為修煉方法也多,普及了這麼多年,它確實有一個如何提高的問題了,你光是停留在原有的理論上也不行。過去有許多人練功不注重心性修煉,不重德,所以搞的比較亂。

Chúng ta ngồi đây có một số là học viên cũ, có một số vẫn chưa từng tham gia lớp học, nhưng đã có nhận thức nhất định về Pháp Luân Đại Pháp chúng ta. Vừa rồi nhân viên công tác chúng ta đã làm tổng kết công tác năm 1994 của Pháp Luân Đại Pháp. Những vấn đề tồn tại cũng đã giảng một cách đại thể rồi; những gì chưa hoàn thiện, chúng ta sẽ cải tiến trong công tác từ nay về sau, trong kiến thiết Đại Pháp. Hiện nay, nhìn từ toàn bộ hình thế phát triển của công pháp chúng ta, cho thấy xu hướng mở rộng rất nhanh chóng, ảnh hưởng càng ngày càng lớn, lên theo đường thẳng, tốc độ truyền đi nhanh phi thường. Bởi vì từ lúc tôi bắt đầu truyền công cho đến nay, cũng bất quá thời gian chỉ mới hơn hai năm. Mà lúc đầu giảng Pháp là dựa vào hình thức khí công tầng thấp chữa bệnh khỏe người để truyền, bởi vì phải để mọi người có một quá trình nhận thức. Khi vừa mới xuất hiện, tôi nói rằng mục đích tôi xuất hiện, chính là truyền công lên cao tầng, đưa người lên tầng thứ cao; những điều tu luyện thật sự trên tầng cao ấy chưa hề có ai giảng. Đương nhiên, ban đầu chúng ta vẫn dựa vào hình thức thấp là khí công để truyền, mục đích là để mọi người có một quá trình nhận thức trước đã. [Nhưng] đặc biệt là một năm gần đây, về cơ bản tôi chính là đang giảng Pháp rồi, cho nên học viên chúng ta đều biết, tầng thứ mà tôi nói khá cao, vấn đề được giảng đều là những điều người khác giảng không nổi, đã nói đến vấn đề tu luyện chân chính, tu luyện như thế nào rồi. Vì phương pháp tu luyện cũng nhiều, đã phổ cập bấy nhiêu năm, nó thực sự có một vấn đề là đề cao như thế nào, chư vị chỉ dừng lại ở lý luận ban đầu thì cũng không được. Trước đây có rất nhiều người luyện công không chú trọng tu luyện tâm tính, không trọng đức, nên tạo thành khá rối loạn.

我們是佛家大法,我們就講佛家的這個理。釋迦牟尼佛講過,說末法時期要有魔出現,禍亂我們常人社會。其實他講的也不只是說廟裏邊有魔來破壞他的法,不只是這一層意思,是講了一個普遍的、很大的一個理。大家想一想,現在這個時期,人的道德水準淪喪到這一步了,人與人之間的矛盾激化到這一步了,唯利是圖,為了錢,人們甚麼都敢幹,世風日下。現在人與人互相之間是很緊張的這麼一種人際關係。而且這個道德水準也很敗壞,甚麼同性戀哪,性解放哪,甚麼吸毒啊,甚麼黑社會呀,亂七八糟的,甚麼都有了,國內國外都是一樣的。我們中國老年人,歲數大的還有一些道德觀念,維持著這個社會的局面。在西方他講了一個文明,所以他這個表面的文明也能夠維持一段時間。可是在年輕一代,特別是我們中國人中也是這樣,在年輕一代根本就沒有甚麼道德可言。大家想一想,這樣發展下去還不危險嗎?

Chúng ta là Đại Pháp Phật gia, nên chúng ta giảng Lý của Phật gia. Phật Thích Ca Mâu Ni từng giảng, rằng thời mạt Pháp sẽ có ma xuất hiện, gây họa làm loạn xã hội người thường chúng ta. Thực ra Ông giảng không chỉ là nói trong chùa có ma đến phá hoại Pháp của Ông, không chỉ là tầng ý tứ ấy, mà còn giảng một Lý rất phổ biến, rất lớn. Mọi người nghĩ xem, thời kỳ hiện nay, tiêu chuẩn đạo đức của con người đã sa đọa đến bước này, mâu thuẫn giữa người với người đã gay gắt đến mức này, chỉ chạy theo lợi, vì tiền, người ta việc gì cũng dám làm, đạo đức thế gian trượt xuống hàng ngày1. Hiện nay giữa người với nhau là những quan hệ con người rất căng thẳng. Hơn nữa tiêu chuẩn đạo đức cũng rất bại hoại, nào là đồng tính luyến ái, giải phóng tình dục, nào là hút hít ma túy, nào là xã hội đen, loạn bát nháo, cái gì cũng có, trong hay ngoài nước đều như nhau. Những người Trung Quốc lớn tuổi, những người cao tuổi còn có một chút quan niệm đạo đức, đang duy trì cục diện xã hội này. Ở phương Tây họ là giảng ‘văn minh’2, cho nên văn minh trên bề mặt của họ cũng có thể duy trì [cục diện] một đoạn thời gian. Nhưng thế hệ trẻ, nhất là người Trung Quốc chúng ta cũng thế, thế hệ trẻ hoàn toàn không còn đạo đức nào đáng nói. Mọi người nghĩ xem, cứ phát triển tiếp thế này thì còn không nguy hiểm sao?

有很多大師、很多預言家也講了,人類將要出現劫難也好,魔難也好,不管他們怎麼去講,但是大家看一看,如果這個社會這樣發展下去還不危險嗎?物極必反哪!這樣發展下去,你說下一步的人是甚麼樣的?我把這個東西傳出來,高層次上可以指導人修煉;那麼低層次上可以指導人如何去做人。確確實實他能夠起到這樣一種作用,所以我們很多學員都想學,都追著學,認為很好。因為真正的法傳出來他是能夠度人的,而且學員感受很深。不只是從理性上,從你的身體上,從素質上,從道德水準上,都發生很大的變化,所以才能夠產生這樣大的影響。我們這個大法他和一般的功法不一樣,我們是真正往高層次上傳。

Có rất nhiều đại sư, rất nhiều nhà dự ngôn nói rồi, nhân loại sắp xuất hiện kiếp nạn cũng vậy, ma nạn cũng vậy, bất kể họ nói thế nào, nhưng mọi người thử nhìn xem, nếu xã hội này cứ phát triển tiếp thế này thì chẳng nguy hiểm sao? Vật cực tất phản3! Cứ phát triển thế này, chư vị nói xem người ở bước tiếp theo sẽ như thế nào? Tôi truyền điều này ra, từ tầng thứ cao có thể chỉ đạo con người tu luyện; còn từ tầng thứ thấp có thể chỉ đạo người ta làm người thế nào. Xác thực Nó4 có thể khởi được tác dụng như vậy, thế nên rất nhiều học viên chúng ta đều muốn học, đều theo học, nhìn nhận rằng rất tốt. Bởi vì Pháp chân chính truyền ra thì Nó có thể độ nhân, hơn nữa học viên cảm thụ rất sâu. Không chỉ là từ lý tính, [mà] từ thân thể chư vị, từ tố chất, từ tiêu chuẩn đạo đức, đều phát sinh biến hóa rất lớn, nên mới có thể tạo ra ảnh hưởng lớn thế này. Đại Pháp này của chúng tôi khác với những công pháp thông thường; chúng tôi là thực sự truyền lên cao tầng.

目前在社會上有許多工廠的工人學了之後,把工廠的精神面貌都改變了。人明白了如何去做人,如何去重德,那麼他也可以轉化成生產力。人心都向善,好好工作,你想做一個好的修煉人,你必須得從基礎做起,你首先得做一個好人。好人在處處都得體現出是一個好人,那麼領導交給的工作,你得把它很好的完成了,因為你是為社會盡義務,必然會起到這樣一種促進作用。因為我往高層次上傳功,講的是往高層次上傳的法,是能夠指導人往高層次上修煉,甚至於修煉到更高境界中去的。

Hiện nay ngoài xã hội có rất nhiều công nhân nhà máy sau khi học [Đại Pháp], đã cải biến diện mạo tinh thần của cả nhà máy. Người ta đã minh bạch ra làm người thế nào, trọng đức ra sao, thế thì họ cũng có thể chuyển hóa thành năng suất. Nhân tâm đều hướng Thiện, làm tốt công việc; chư vị muốn làm một người tu luyện tốt, thì chư vị phải từ cơ bản đi lên, trước tiên chư vị phải làm một người tốt. Người tốt ở đâu đâu cũng phải thể hiện là một người tốt, như vậy lãnh đạo giao công việc, chư vị phải hoàn thành nó thật tốt, vì chư vị là tận nghĩa vụ với xã hội, tất nhiên sẽ khởi được một tác dụng thúc đẩy. Vì tôi truyền công lên tầng thứ cao, điều tôi giảng là Pháp truyền lên tầng thứ cao, là có thể chỉ đạo người ta tu luyện lên tầng thứ cao, thậm chí là tu luyện đến cảnh giới cao hơn nữa.

那麼你說我不想修煉到高層次上去,或者這個理一旦叫常人知道的時候,他會發現他做人也得按照這樣一個理去做。因為人類道德水準你不管它滑到哪個危險的邊緣上去了,可是這個宇宙的理,他是不變的。因為這個宇宙的理他不變,才能看出人類的道德滑下去了。如果他也變了,就看不到人類的道德滑下去了。我講了人類的道德滑到這一步上來,很多人還不太理解。特別是我們參加班學習的,往往在前一兩天之內,我講的問題他不太理解,等這個學習班一結束之後,他回頭一看常人社會,他甚麼都明白了。你在這個洪流之中你是體悟不到的,你還覺的自己比別人強。當你思想一下子昇華上來,你回頭再一看的時候,你才會發現它的危險。因為大法能夠有這樣的力量,能夠起到這樣一種作用。雖然到了這一步上,人還是有善心的,還是有佛性在的,所以你一說他是明白的。很多人還是要向善、要學,當然還有很多根基不錯的人還要往更高修煉的,所以才能夠使我們這個功法在傳播過程中形成這麼一種趨勢。

Mà chư vị bảo tôi không muốn tu luyện lên tầng thứ cao, hoặc là người thường một khi được biết đến cái Lý này, thì họ sẽ phát hiện ra rằng họ làm người cũng cần chiểu theo cái Lý này mà làm. Bởi vì bất kể tiêu chuẩn đạo đức nhân loại trượt xuống ranh giới nguy hiểm nào, nhưng Lý này của vũ trụ, Nó là bất biến. Vì Lý của vũ trụ này là bất biến, nên mới có thể nhìn ra đạo đức của nhân loại đã trượt dốc. Nếu Nó cũng biến đổi rồi, thì sẽ không nhìn ra đạo đức của nhân loại trượt dốc. Tôi giảng rằng đạo đức của nhân loại trượt xuống đến bước này, rất nhiều người vẫn không hiểu lắm. Nhất là những người tham gia lớp học, thông thường một hai ngày đầu, đối với vấn đề tôi giảng họ không hiểu lắm, đợi sau khi lớp học ấy kết thúc, họ quay đầu lại nhìn xã hội người thường, thì họ sẽ minh bạch hết. Chư vị ở trong dòng chảy lớn [xã hội] này chư vị thể ngộ không ra, chư vị còn cảm thấy mình hơn người khác. Một khi tư tưởng của chư vị lập tức thăng hoa lên, chư vị quay đầu nhìn lại, chư vị mới phát hiện ra nguy hiểm của nó. Bởi vì Đại Pháp có thể có lực lượng như vậy, có thể khởi được tác dụng như vậy. Tuy đã đến bước này, nhưng con người vẫn là có Thiện tâm, vẫn là còn Phật tính, nên chư vị hễ nói thì họ minh bạch. Rất nhiều người vẫn muốn hướng Thiện, muốn học, tất nhiên còn có rất nhiều người căn cơ tốt còn muốn tu luyện lên cao hơn, bởi vậy mới có thể khiến cho công pháp này của chúng ta tạo nên xu thế như thế này trong quá trình truyền bá.

前些年,這個氣功由於某些人閉著眼睛反對,抱著一概否定的態度反對,使氣功走向了低谷。前兩年又出現比較熱的一些情況,雖然沒有過去熱,但是也是很熱的。可是最近又冷了下來。冷下來,不是因為誰去反對它,誰去批判它,或者是採取甚麼行政手段使它冷卻下來的,而是人們都能夠冷靜的思考思考,哪些是真的?哪些是假的?哪些是騙人、害人的?人們都在考慮這些問題,能夠冷靜的對待了,才出現這個形勢。所以有很多假氣功沒有市場了,它辦不起班騙不到錢了。當然我去許多地方傳功,有許多地方氣功科研會、人體科研會的領導給我講這樣的事:說現在各個地方氣功辦班都辦不起來,而且招生很困難,整個氣功都在往下滑。而唯獨法輪大法在直線往上升,而且發展非常迅速。當然這是別人講的話,我就說這個意思。將來可能會發展更快、更迅速,這個我在出山前就知道,將來會出現甚麼狀態我也知道,我也清清楚楚。

Mấy năm trước, vì một số người nào đó nhắm mắt mà phản đối khí công, ôm giữ thái độ phủ định hết thảy mà phản đối, khiến cho khí công đi xuống đáy. Hai năm trước lại xuất hiện một số tình huống ấm lên, mặc dù không còn nóng như trước đây, nhưng cũng rất nóng. Gần đây lại lặng xuống rồi. Lặng xuống không phải là vì có ai phản đối nó, có ai phê bình nó, hay là sử dụng thủ đoạn hành chính nào đó để khiến nó lặng xuống, mà là vì người ta đều có thể bình tĩnh mà cân nhắc xem, đâu là thật? Đâu là giả? Đâu là lừa người, hại người? Người ta đều đang suy xét những vấn đề này, đã có thể bình tĩnh đối đãi, thì mới xuất hiện hình thế này. Vậy nên có rất nhiều khí công giả không còn thị trường nữa, chúng không mở được lớp, không lừa được tiền nữa. Đương nhiên tôi đã đi rất nhiều nơi truyền công, rất nhiều lãnh đạo các Hội Nghiên cứu Khí công, Hội Nghiên cứu Nhân thể5 ở các địa phương đều nói với tôi chuyện thế này: Hiện nay lớp khí công ở các nơi đều không mở được, hơn nữa chiêu sinh rất khó khăn, toàn bộ khí công đều đang trượt xuống. Nhưng duy chỉ có Pháp Luân Đại Pháp đang thăng lên theo đường thẳng, hơn nữa phát triển vô cùng tấn tốc. Tất nhiên đây là lời người khác nói, tôi chỉ nói ý như vậy. Tương lai có thể còn phát triển nhanh hơn, tấn tốc hơn; tôi đã biết điều này từ trước khi ra công chúng6, tương lai sẽ xuất hiện trạng thái gì tôi cũng biết, tôi cũng hết sức rõ ràng.

總的來說,我們法輪大法確實在傳法過程中,本著對學員負責,對社會負責,我們才收到了這樣一個好的效果。剛才我就簡單的講了一下我們法輪大法的發展形勢。在座的還有許多新學員,可能還覺的不太理解。很多學員還想聽我講一講關於法輪大法的情況和再講點法。在座的有些新學員,我也可以利用這個時間給大家介紹一下法輪大法。同時我也可以給大家簡單的講一講修煉中的一些個法理。

Nói tóm lại, Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi xác thực là trong quá trình truyền Pháp, có trách nhiệm với học viên, có trách nhiệm với xã hội, nên chúng tôi mới thu được hiệu quả tốt đến thế. Vừa rồi tôi nói giản lược về hình thế phát triển của Pháp Luân Đại Pháp chúng ta. Ngồi đây còn có rất nhiều học viên mới, có thể vẫn cảm thấy không hiểu lắm. Rất nhiều học viên vẫn muốn nghe tôi giảng thêm về tình hình của Pháp Luân Đại Pháp và giảng Pháp chút nữa. Ở đây có một số học viên mới, tôi cũng có thể lợi dụng thời gian này giới thiệu một chút cho mọi người về Pháp Luân Đại Pháp. Đồng thời tôi cũng có thể giảng qua một chút cho mọi người về một số Pháp Lý trong tu luyện.

大家知道,練功在祛病健身這一個層次中,是講取眾家之所長的。因為大家都想練功,鍛練身體把病搞掉,說取眾家之所長,拿誰的東西來把病搞掉還不行呢?回頭做個常人,這是沒有問題的。我講了不同層次存在著不同的法,不同層次的法他對不同層次的修煉者有不同的約束、不同的要求。常人就是在常人這個層次面上,那麼在常人這個層次面中,就講可以取眾家之所長把身體弄好,這是沒有問題的。那麼,其實這個氣功它不只是祛病健身的東西,它本來就是修煉,因為是為了適應現代人的思想意識,容易接受,不容易被扣帽子,人們才把它起個名字叫氣功的。「文化大革命」的中後期就發展起來了,就進入高潮了,那個時候你要把它原來的名字叫出來,可能你就得受到批判。儘管你想做好事,為了廣大的群眾祛病健身,有個好的身體也不行,因為極左嘛。所以大家就不叫它原來的名字,就把它概括的叫起了氣功。當然氣功是有門派之分的,畢竟每門每派的修煉方法不一樣,所以出來這個功、那個功,都隱去了它原有的名,氣功就這樣叫起來了。

Mọi người biết đó, luyện công ở tầng thứ chữa bệnh khỏe người này, là giảng [thu] lấy sở trường của các gia7. Vì mọi người đều muốn luyện công, rèn luyện thân thể chữa hết bệnh; nói rằng lấy sở trường từ các gia, lấy thứ của ai để chữa khỏi bệnh thì sao không được? [Tập luyện rồi] quay về làm người thường, thì nó không vấn đề gì. Tôi đã giảng rằng tầng thứ khác nhau có tồn tại Pháp khác nhau, Pháp ở tầng thứ khác nhau đối với người tu luyện tại tầng thứ khác nhau có ước thúc khác nhau, yêu cầu khác nhau. Người thường chính là ở trên tầng diện người thường này, vậy trong tầng diện người thường này, thì giảng rằng có thể lấy sở trường của các gia để làm cho thân thể khỏe mạnh, thì không sao. Đã vậy, kỳ thực khí công này nó không chỉ là thứ chữa bệnh khỏe người, nó vốn dĩ chính là ‘tu luyện’; vì là để thích ứng với ý thức tư tưởng con người hiện đại, dễ tiếp thu, không dễ bị chụp mũ, người ta mới đặt tên cho nó gọi là ‘khí công’. Thời kỳ giữa và cuối “Đại Cách mạng văn hóa”, [khí công] phát triển lên rồi, trở thành cao trào, bấy giờ chư vị mà gọi nó bằng những tên nguyên gốc, có lẽ chư vị sẽ bị phê phán. Cho dù chư vị muốn làm việc tốt, muốn chữa bệnh khỏe người cho quảng đại quần chúng, có thân thể khỏe mạnh cũng là không được đâu, vì cực tả mà. Nên người ta không gọi nó bằng những tên nguyên gốc, mà gọi nó một cách khái quát là ‘khí công’. Đương nhiên khí công là có sự phân chia môn phái, dù sao thì phương pháp tu luyện của mỗi môn mỗi phái đều không giống nhau, do đó xuất hiện công này, công kia, đều ẩn đi cái tên nguyên gốc, khí công chính là bắt đầu được gọi như vậy.

這個氣功是個修煉的東西,包括宗教中修煉的方法也是修煉方法之一。既然是個修煉方法,它就不單一是祛病健身了,因為它要達到一個很高深的境界中去,你想那個東西要拿來給人祛病健身,當然就能顯示出它的奇效了。但是可有一點,為甚麼有許多人煉功他不祛病?為甚麼有許多人煉功他不長功?因為氣功它是修煉。那麼修煉的東西就不是常人中的體操、常人中的技能、常人中那種形式的體育活動,它是超常的。那麼既然是超常的,想用這個超常的辦法把你的身體搞健康,你想用超常的辦法達到一個高深的境界中去,那麼這個超常的東西是不是就得有一個超常的理來指導啊?那麼超常的理,它實際上就起到了一個指導和約束作用,也就是說它是超出常人層次面的東西,你就必須得按照超常的理要求的那樣做。常人這個層次的東西,你可以付出點勞動,花點錢,你可以買的到,或者是你多付出點勞動,像常人中的技能一樣你把它得到。可是修煉不行,得必須修人的心,修煉你這顆心你才能夠昇華上來。必須得重德、修心性,你才能提高上來。

Khí công là những điều về tu luyện; kể cả phương pháp tu luyện trong tôn giáo cũng là một trong những phương pháp tu luyện. Đã là phương pháp tu luyện, thì nó không đơn thuần chỉ là chữa bệnh khỏe người nữa, bởi vì nó phải đạt đến một cảnh giới rất cao thâm; chư vị nghĩ xem thứ đó nếu lấy ra để chữa bệnh khỏe người cho con người, đương nhiên là có thể hiển thị ra hiệu quả kỳ diệu. Nhưng có một điểm, tại sao rất nhiều người luyện công mà họ không khỏi bệnh? Tại sao rất nhiều người luyện công mà họ không tăng công? Bởi vì khí công là tu luyện. Mà những điều tu luyện không phải là thể thao nơi người thường, kỹ năng nơi người thường, hoạt động thể dục hình thức nơi người thường; nó là siêu thường. Vậy đã là điều siêu thường, muốn dùng biện pháp siêu thường để làm thân thể chư vị khỏe mạnh, chư vị muốn dùng biện pháp siêu thường để đạt cảnh giới cao thâm, thế thì điều siêu thường ấy phải chăng là phải có một Lý siêu thường để chỉ đạo? Như vậy Lý siêu thường ấy, thực tế đó chính là khởi một tác dụng chỉ đạo và ước thúc, cũng nói nó là điều vượt khỏi tầng diện người thường, chư vị ắt phải chiểu theo yêu cầu của Lý siêu thường mà làm. Những thứ ở tầng thứ người thường này, chư vị có thể bỏ chút sức lao động, tiêu chút tiền, thì chư vị có thể mua được; hoặc là chư vị phó xuất8 nhiều sức lao động hơn chút, thì chư vị đạt được giống như [đạt được] kỹ năng người thường. Nhưng tu luyện [thế] thì không được, ắt phải tu tâm của con người, tu luyện cái tâm này của chư vị thì chư vị mới có thể thăng hoa lên được. Ắt phải trọng đức, tu tâm tính, thì chư vị mới có thể đề cao lên.

以前我講了為甚麼人重心性、修德才能提高上來?因為這個宇宙中有個理在制約著。甚麼理呀?就是我講的宇宙中有一個特性存在。就像我們人一樣,就說你這個人的身體,除了你這個肉身之外,你還有其它的生命存在,才能構成一個完整的人。你光是一個身體擺在那兒就是一塊肉。你得有你的脾氣、秉性、特性,你的元神存在,你才能構成一個完整的人,獨立的人,帶有自我個性的人。這個宇宙也是一樣,除了我們現在能夠認識到它的物質存在的這一方面,甚麼星球啊,銀河系呀,恆星、彗星、行星,除了認識的物質的這方面之外,它還有一個特性的存在,也可以說成是精神的存在。那麼概括起來講,因為這個法一往下來就很大,說法也多了。但是在很高層次上就很簡單,三個字就可以概括起來這種特性,叫作真、善、忍,可不是真善美,是真、善、忍。

Trước đây tôi đã giảng tại sao con người [coi] trọng tâm tính, tu đức mới có thể đề cao lên? Bởi vì trong vũ trụ này có [Pháp] Lý đang chế ước. Là Lý gì vậy? Chính là điều tôi giảng rằng trong vũ trụ có tồn tại một đặc tính. Tựa như con người chúng ta, tức là cái thân thể người này của chư vị, ngoài cái nhục thân9 này ra, thì chư vị còn có những sinh mệnh khác tồn tại, thì mới có thể cấu thành nên một người hoàn chỉnh. Chư vị chỉ có thân thể này đặt ở kia thì chỉ là một khối thịt. Chư vị phải có tính khí, tính cách, đặc tính, nguyên thần chư vị tồn tại, thì mới có thể cấu thành một người hoàn chỉnh, con người độc lập, con người mang theo cá tính tự ngã10. Vũ trụ này cũng như vậy, ngoài phương diện tồn tại vật chất của nó mà hiện nay chúng ta có thể nhận thức được, như là tinh cầu, hệ Ngân Hà, ngôi sao, sao chổi, hành tinh, ngoài phương diện vật chất đã biết đến này, nó còn có một đặc tính tồn tại, cũng có thể nói là tồn tại về tinh thần. Vậy giảng một cách khái quát —bởi vì Pháp này hễ xuống dưới thì sẽ rất lớn, thuyết pháp cũng sẽ nhiều— Nhưng ở trên tầng thứ rất cao thì rất đơn giản, ba chữ là có thể khái quát được chủng đặc tính này, gọi là Chân-Thiện-Nhẫn; không phải Chân Thiện Mỹ, mà là Chân-Thiện-Nhẫn.

這種特性當然不是這麼簡單的,他裏邊分化出許許多多,在各個層次,越低層次上越複雜、越龐雜;在高層次上用三個字就概括起來叫作「真、善、忍」。每個空氣的微粒中,每個物質的最微粒中,土、石頭、鋼鐵、木頭,哪怕是塑料,一切物質中、空氣中都有這種特性的存在。常人感覺不到他的存在,是因為常人在常人自己的這個層次面之中,所以感覺不到。那麼你一旦要想超出這個常人層次的時候,你就能夠感覺到他的存在。也就是說你想用超常的辦法祛病,你不按照他的要求,不按照超常這個狀態的水準去要求,你這個病就祛不了。你想把功長上來,你不按照這個超常的理去要求,也就是超出常人層次面這個理去要求,你的功就永遠也不會長上來的。

Chủng đặc tính này đương nhiên không đơn giản như vậy, bên trong Nó phân hóa ra rất nhiều rất nhiều, tại mỗi từng tầng thứ, ở tầng thứ càng thấp thì càng phức tạp, càng khổng lồ; ở trên tầng thứ cao dùng ba chữ là có thể khái quát gọi là “Chân-Thiện-Nhẫn”. Trong mỗi vi lạp không khí, trong mỗi vi lạp nhỏ nhất của vật chất, đất, đá, sắt thép, gỗ, kể cả nhựa, trong hết thảy vật chất, trong không khí đều có chủng đặc tính này tồn tại. Người thường không cảm giác được sự tồn tại của Nó, là bởi vì người thường ở trong tầng diện này của người thường, nên cảm giác không tới. Vậy nếu chư vị muốn siêu xuất khỏi tầng thứ người thường này, thì chư vị có thể cảm giác được sự tồn tại của Nó. Nghĩa là chư vị muốn dùng phương pháp siêu thường để chữa bệnh, [mà] chư vị không chiểu theo yêu cầu của Nó, không chiểu theo tiêu chuẩn của trạng thái siêu thường này mà yêu cầu, thì cái bệnh này của chư vị sẽ không chữa được. Chư vị muốn tăng trưởng công, [mà] chư vị không chiểu theo Lý siêu thường này mà yêu cầu, cũng tức là chiểu theo cái Lý siêu xuất khỏi tầng diện người thường mà yêu cầu, [thì] công của chư vị vĩnh viễn không tăng lên được.

那麼為甚麼有些人道德水準很差,他還有些功呢?一個是他自身根基造成的,因為他道德水準很差,他是在消耗他自己的根基,消耗沒了他也就啥也沒有了,在他還沒有消耗完之前他還有一點。還有一些是有附體存在的,魔嘛,允許這個魔在特定的時期、特定的很低的狀態中存在,它是有用的。沒有魔,人就沒有病;沒有魔,人就沒有難。因為人就應該有難,就應該有病,因為是人自己造的,那個魔反過來說也是人自己造的。如果以前欺負過人,幹了壞事,殺過生,那麼你就得還,你不還是不行的。這個宇宙中從真、善、忍的理中派生出來一個理,叫作「不失者不得」,得就得失,欠了就得還。你不失強制你失,他就有這麼個理跟著的,所以就有魔難。

Thế sao có người chuẩn mực đạo đức rất kém, mà họ vẫn có một chút công? Một là do căn cơ tự thân họ tạo nên, vì chuẩn mực đạo đức của họ rất kém, họ là đang tiêu hao căn cơ của bản thân họ, tiêu hao hết thì họ cũng chẳng còn gì, trước khi họ tiêu hao hết thì họ vẫn còn một chút. Còn một số người là có phụ thể, ma; cho phép ma này tồn tại ở một thời kỳ đặc định, trong trạng thái rất thấp đặc định; chúng hữu dụng. Không có ma, thì con người không có bệnh; không có ma, thì con người không có nạn. Vì con người nên phải có nạn, nên phải có bệnh, vì đó là chính con người tạo ra; xoay lại mà nói thì ma kia cũng là do chính con người tạo nên. Nếu như trước đây từng ức hiếp người ta, làm việc xấu, từng sát sinh, vậy thì chư vị phải hoàn trả, chư vị không trả là không được. Từ trong vũ trụ này, từ Lý Chân-Thiện-Nhẫn ấy dẫn sinh ra một Lý, gọi là “bất thất giả bất đắc”11, được thì phải mất, nợ thì phải trả. Chư vị không mất thì cưỡng chế chư vị mất, Nó có cái Lý này kèm theo, cho nên sẽ có ma nạn.

剛才我講了這個真、善、忍。佛家修煉主要悟他這個真、善、忍的善,但是真他也有,忍他也有,可是他重點在善上修。修善可以生出慈悲心,一旦生出慈悲心之後,他看誰都苦,因此他就有了普度眾生的願望。這個法鋪下來就大了,普度眾生嘛,他傳的人多,所以生出八萬四千法門。道家主要在這個真上悟,主要是修真,但是善也有忍也有,他重點落在真上去修。所以他講,說真話、辦真事、做真人,修真養性返本歸真,最後修成真人。他重點落在這個真上去修。因為他落在真上去修了,他就不帶有普度眾生的願望,所以道家真正傳弟子是單傳。道教是後來在近代形成的一種改良宗教。過去在久遠時期,各個史前文化都沒有道教,所以道家歷來是單傳的。他既然是單傳的,他傳的面就很小,他這個法鋪下來之後,也生出三千六百法門。相比之下,佛家有八萬四千法門,很大了。

Vừa rồi tôi giảng Chân-Thiện-Nhẫn. Phật gia tu luyện chủ yếu ngộ về Thiện của Chân-Thiện-Nhẫn, nhưng cũng có Chân, cũng có Nhẫn; nhưng họ trọng điểm tu Thiện. Tu Thiện có thể sinh xuất tâm từ bi; một khi xuất tâm từ bi, thì họ thấy ai cũng khổ, vì vậy họ có nguyện vọng phổ độ chúng sinh. Pháp này trải ra thì lớn, [vì] phổ độ chúng sinh mà, họ truyền cho nhiều người, cho nên sinh ra tám vạn bốn nghìn pháp môn. Đạo gia chủ yếu ngộ về Chân, chủ yếu là tu Chân, nhưng cũng có Thiện cũng có Nhẫn, trọng điểm đặt vào tu Chân. Do đó họ giảng, nói điều chân, làm việc chân, làm người chân, tu chân dưỡng tính phản bổn quy chân, cuối cùng tu thành Chân Nhân. Họ đặt trọng điểm vào [chữ] Chân mà tu lên. Vì họ đặt vào Chân mà tu, nên họ không mang nguyện vọng phổ độ chúng sinh, do vậy Đạo gia đệ tử thật sự được truyền là đơn truyền. Đạo giáo là một loại tôn giáo cải cách hình thành thời cận đại sau này. Trước đây thời kỳ xa xưa, mỗi từng văn hóa tiền sử đều không có Đạo giáo, cho nên Đạo gia xưa nay là đơn truyền. Họ đã là đơn truyền, phạm vi họ truyền rất nhỏ, Pháp này của họ sau khi trải ra, thì cũng sinh ra ba nghìn sáu trăm pháp môn. So sánh ra, Phật gia có tám vạn bốn nghìn pháp môn, rất là lớn.

真、善、忍他是衡量好壞的唯一標準。你要同化這個特性,你才能夠長上功來;你同化不了這個特性,你就永遠也長不上功來。這個我們講過了,一個修煉的人,或者是一個常人,對這個理幾句話就可以簡單的概括起來。你比如說,好人、壞人和修煉人怎麼區分?能夠順應宇宙這個特性的人,那就是一個好人,保證是一個好人;背離這個宇宙特性而行的人,那是一個真正的壞人。可能有的人在單位裏,人家說你不好,你這一輩子老吃苦,誰都瞧不起你或者是老欺負你。我告訴你,你可不一定是真不好。你在單位裏誰都誇你,可能是你很會來事,我告訴你,你可不一定是真好。那個宇宙的理才是衡量好壞的唯一標準。那麼作為一個修煉的人,就是你能同化宇宙這個特性,你就是個得道者,就這麼簡單個理。

Chân-Thiện-Nhẫn là tiêu chuẩn duy nhất đo lường tốt xấu. Chư vị phải đồng hóa với đặc tính này, thì chư vị mới có thể tăng công; chư vị không đồng hóa được với đặc tính này, thì chư vị vĩnh viễn không tăng công lên nổi. Điều này chúng tôi từng giảng rồi, một người tu luyện, hoặc là một người thường, đối với Lý này thì chỉ cần mấy câu nói là có thể khái quát lại một cách đơn giản. Ví dụ, người tốt, người xấu và người tu luyện [thì] phân biệt thế nào? Người có thể thuận theo đặc tính này của vũ trụ, thì chính là một người tốt, đảm bảo là một người tốt; [còn] người hành xử trái ngược với đặc tính vũ trụ này, thì đó là người thực sự xấu. Có thể có người ở đơn vị [công tác], người ta nói chư vị không tốt, cả đời chư vị toàn chịu khổ, ai cũng không coi chư vị ra gì hoặc luôn bắt nạt chư vị. Tôi bảo chư vị này, chư vị không nhất định là thật sự không tốt. Ở đơn vị ai cũng tán dương chư vị, có thể là chư vị rất biết việc, tôi nói với chư vị rằng, chư vị không nhất định là thật sự tốt. Lý của vũ trụ kia mới là tiêu chuẩn duy nhất đo lường tốt xấu. Thế thì làm một người tu luyện, chư vị có thể đồng hóa với đặc tính này của vũ trụ, thì chư vị chính là người đắc Đạo, Lý đơn giản vậy thôi.

人的功根本就不是煉出來的。大家都在練氣功,下了很多功夫,起早貪黑的練,就以為他那個功可以長上來的,可是他一點都長不上來。我講這話很多人可能吃驚,你不是也教人家煉功嗎?那你教人甚麼呢?大家知道有兩個字叫作「修煉」。人們都重視那個煉,而不重視這個修,就以為這個修好像是那個煉的修辭了,名詞的修辭了。我告訴大家,修在先煉在後,修才是第一位重要的。你要不重視你心性的修煉、不重德,你根本就沒有能量可談!你不注重你心性的修煉,你根本就沒有功!而真正的能量也就是功,就是層次高低、功力大小這個功。人有多高的功,或者是佛教中講的果位多高,那個功純粹是修出來的。大家看那和尚他可沒有煉功,而他就長了功了,為甚麼呢?就是他在修。

Công của người ta hoàn toàn không phải do luyện mà ra. Mọi người đều đang luyện khí công, đã mất rất nhiều công sức, thức khuya dậy sớm để luyện, bèn tưởng rằng công của họ có thể tăng lên, nhưng [công] của họ không hề tăng chút nào. Tôi giảng lời này có lẽ rất nhiều người kinh ngạc, [hỏi] chẳng phải Ông cũng dạy người ta luyện công sao? Thế Ông dạy người ta cái gì vậy? Mọi người biết có hai chữ gọi là “tu luyện”. Người ta chỉ coi trọng ‘luyện’ mà chẳng coi trọng ‘tu’, nên tưởng rằng chữ ‘tu’ này dường như là tu từ của chữ ‘luyện’, là tu từ của danh từ. Tôi bảo mọi người này, ‘tu tại tiên luyện tại hậu’12; tu mới là quan trọng bậc nhất. Chư vị không coi trọng tâm tính của chư vị mà tu luyện, không trọng đức, thì chư vị hoàn toàn không có năng lượng đáng nói! Chư vị không chú trọng tâm tính chư vị mà tu luyện, thì chư vị hoàn toàn không có công! Mà năng lượng thật sự cũng chính là công, chính là cái công [xác định] tầng thứ cao thấp, công lực lớn nhỏ. Người ta có công cao bao nhiêu, hoặc trong Phật giáo giảng quả vị cao bao nhiêu, cái công kia thuần túy là tu mà ra. Mọi người thấy hòa thượng kia họ không luyện công, vậy mà họ vẫn tăng công; tại sao? Bởi vì họ đang tu.

那麼修和我們講的這個煉,它有甚麼關係呢?我一會兒講我們煉的是甚麼。修和煉的關係是甚麼呢?為甚麼我們修就能夠長功呢?你說修心性這個東西,你談的這不是人的思想中、概念中、意識形態中的事情嗎?我們所說煉的功他不是物質上的嗎?它們之間有甚麼關係呢?我告訴大家,這個理到了高層次上它就不能和低層次上的一樣看待。常人在常人中說常人的事情,說不清;那麼跳出常人中來看常人的事情就一目了然。在思想界、理論界一直在爭論物質是第一性的,還是精神是第一性的,一直在爭論這個問題,老是把它分開去爭論,分開去認識。我說它就是一性的,是統一的。我們舉個最簡單的例子。我們現在搞人體科學也好,搞現代科學也好,認為人的思想,人想像的東西就是一種意念能,人們發出的意念就是一種物質。現在被普遍的這樣認識了。那麼既然它是一種物質,它是不是人的思想和精神?是不是你想的思想?它不就是一性的東西嗎?這個我就舉這麼個簡單的例子。

Thế thì tu và luyện mà chúng ta nói, chúng có quan hệ gì? Lát nữa tôi sẽ giảng chúng ta luyện những gì. Mối quan hệ giữa tu và luyện là gì? Tại sao chúng ta tu là có thể tăng công? ‘Những gì tu tâm tính mà Ông nói ấy, điều Ông bàn ấy chẳng phải là những việc trong tư tưởng, trong khái niệm, trong hình thái ý thức của con người sao? Công luyện được mà chúng ta nói đến chẳng phải là vật chất sao? Giữa chúng có quan hệ gì chứ?’ Tôi bảo mọi người này, cái Lý này đến tầng thứ cao thì Nó không thể [được] đối đãi giống như tầng thứ thấp. Người thường nơi người thường nói sự việc của người thường, nói không rõ được; còn nhảy ra khỏi người thường mà nhìn sự việc người thường thì liếc mắt là rõ ngay. Trong giới tư tưởng, giới lý luận vẫn luôn tranh luận vật chất là đệ nhất tính, hay tinh thần là đệ nhất tính; vẫn luôn tranh luận về vấn đề này, cứ luôn tách chúng ra để tranh luận, tách ra để nhận thức. Tôi nói rằng chúng là nhất tính, là thống nhất. Chúng ta lấy một ví dụ đơn giản nhất. Chúng ta hiện nay làm khoa học nhân thể cũng vậy, làm khoa học hiện đại cũng vậy, cho rằng tư tưởng của con người, những thứ mà con người tưởng tượng ra chính là một loại năng [lực] ý niệm, ý niệm mà người ta phát ra chính là một loại vật chất. Hiện nay đã phổ biến nhận thức như thế. Vậy nó đã là một loại vật chất, nó có phải là tư tưởng và tinh thần của con người không? Có phải là tư tưởng mà chư vị nghĩ không? Đó chẳng phải là những gì nhất tính hay sao? Điều này tôi chỉ lấy ví dụ đơn giản vậy thôi.

我剛才講了,宇宙中存在著這種物質,同時存在著這種特性,所以它是一性的東西,一體的東西。你不同化這個特性,你就永遠修不上來。甚麼意思呢?舉個簡單的例子,這個宇宙中龐大的物質,在各種物質中都含有這種特性的存在,它在宇宙中起到一種均衡和制約的力量。人在常人社會中生生世世不知幹了多少壞事,那要我說人就是業滾業滾到這一步上來了,都有很大的業。就像一個瓶子一樣,這個瓶子裏邊裝滿了髒東西,你把蓋擰的很緊,你要不把髒東西倒出去,你扔到水裏「咕咚」一下子一沉到底。你要把它倒出一點,你扔裏邊它就漂上一點;你倒出一點它漂上一點,倒的越多漂的越高;你把這個髒東西全都倒出去的時候,這個瓶子你把它蓋上蓋,你往水裏頭摁,你都摁不下去,它就在那兒漂著,它的位置就應該在那兒。我舉這個例子就是說,人在常人社會中都做了些不好的事情,你的心被污染了,你的思想被污染了,你帶有很大的業。你這些東西你不把它去掉,你的心性不變好,你還會產生這些不好的東西,時時刻刻都在產生。所以你必須得把心變好,再把這些物質、不好的東西去掉,也就是說你在常人中修煉的時候,你得吃一些苦,勞其筋骨,苦其心志,你才能夠昇華上來的。我講的這個就是修上來的,你不修這顆心,宇宙特性制約你,他不讓你上來。我們還可以給你分解著講,這個功怎麼長上來的。

Tôi vừa giảng rồi, trong vũ trụ [có] tồn tại chủng vật chất này, đồng thời tồn tại chủng đặc tính này, nên nó là nhất tính, là nhất thể. Chư vị không đồng hóa với đặc tính này, thì chư vị vĩnh viễn không tu lên được. Có nghĩa là gì? Lấy một ví dụ đơn giản; vật chất to lớn trong vũ trụ này, trong các chủng vật chất đều bao hàm sự tồn tại của chủng đặc tính này, trong vũ trụ nó khởi một loại lực lượng cân bằng và chế ước. Con người trong xã hội người thường đời này qua đời khác không biết đã làm bao nhiêu việc xấu, nên nếu bảo tôi nói thì con người đã đến mức nghiệp cuộn lấy nghiệp rồi, ai cũng có nghiệp rất lớn. Giống như một cái chai, trong cái chai này đựng đầy thứ bẩn, chư vị dùng nắp đậy thật chặt lại, nếu chư vị không đổ thứ bẩn ra ngoài, chư vị ném xuống nước “tùm” lập tức chìm ngay đến đáy. Nếu chư vị đổ ra một ít, chư vị ném xuống thì nó nổi lên một chút; chư vị đổ ra một chút thì nó nổi lên một chút, đổ ra càng nhiều thì nổi lên càng cao; khi chư vị đổ hết thứ bẩn ra ngoài, chư vị đậy nắp lại, có ấn xuống nước thì chư vị cũng không ấn xuống được, nó cứ nổi lên ở đó, vị trí của nó nên phải ở đó. Tôi lấy ví dụ này để nói rằng, con người trong xã hội người thường đều từng làm những việc bất hảo, tâm của chư vị đã ô nhiễm rồi, tư tưởng của chư vị đã ô nhiễm rồi, chư vị mang theo nghiệp rất lớn. Những thứ này chư vị không bỏ chúng đi, tâm tính của chư vị không tốt lên, chư vị vẫn sẽ sinh ra những thứ không tốt này, mọi thời khắc đều đang sinh ra. Vì vậy chư vị nhất định phải khiến cho tâm trở nên tốt, còn phải vứt bỏ những vật chất, những thứ bất hảo này đi, cũng tức là khi chư vị tu luyện nơi người thường, chư vị phải chịu một chút khổ, nhọc cái gân cốt, khổ cái tâm chí, chư vị mới có thể thăng hoa lên được. Điều tôi giảng đây chính là [về] tu lên trên, chư vị không tu cái tâm này, đặc tính vũ trụ chế ước chư vị, Nó không cho chư vị lên. Chúng tôi còn có thể phân giải ra mà giảng cho chư vị, cái công này tăng lên như thế nào.

說到我們人,其實在各個空間中都有人,在各個空間存在著。因為時空的差異、身體存在的差異、形式差異都很大。在一個特殊的空間中,我們身體周圍有一個場,而這個場有兩種物質存在。一個是德,就是一種白白的、一團一團的物質,德很多的人,密集度很大。過去人們一直把德說成是意識形態中的東西,一種境界。我告訴大家,那個德就是一種物質,純純粹粹是物質存在。還有一種東西在同一個場存在,叫作業力,而它卻是黑色的。那個德是做了好事,或者是被人欺負了,吃了苦了,或者是遭了罪而得到的這個德。而那個黑色的業力就是自己幹了壞事所產生的。過去人講根基好與壞,就看兩種物質比例的多少,造成了他在常人社會中,修煉的人所說的根基好與壞的一個主要方面。但是常人用肉眼是看不到的,因為常人就在迷中,你就在迷中才讓你在迷中返。因為你自己把自己促成掉在這一步上了,所以你就得閉著眼睛往回修,不讓你看到真相,看到真相就不能修了,因為就不存在悟,也就不存在修。看著修誰不幹呢?那佛他為甚麼老是那個層次,他就不往上提高?當然他甚麼都知道了,他不存在心性的修煉等問題,在迷中才好修。有的人還強調我看的清楚了我好修,你看的清楚你就修不了。還有的人說我看到了我才相信,我看不到我就不相信。我們一直認為這種人是悟性不好。

Nói đến con người chúng ta, thực ra ở các không gian đều có người, tồn tại ở các không gian. Do sự sai khác về thời không, sự sai khác về tồn tại thân thể, sai khác về hình thức cũng rất lớn. Trong một không gian đặc thù, xung quanh thân thể chúng ta có một trường, mà trường này có hai chủng vật chất tồn tại. Một là ‘đức’, chính là một loại vật chất trắng trắng, từng cục từng khối; người có rất nhiều đức, thì mật độ rất lớn. Trước đây người ta luôn coi đức là điều trong hình thái ý thức, một loại cảnh giới. Tôi bảo mọi người này, đức kia chính là một chủng vật chất, thuần túy là tồn tại vật chất. Còn có một thứ nữa tồn tại trong cùng một trường, gọi là ‘nghiệp lực’, nhưng nó là màu đen. Đức kia là làm việc tốt rồi, hoặc là bị người khác ức hiếp, chịu khổ rồi, hoặc là chịu tội [khổ] mà đắc được đức ấy. Còn nghiệp lực màu đen kia là do bản thân làm việc xấu mà sinh ra. Quá khứ người ta giảng căn cơ tốt và xấu, chính là xem tỷ lệ hai chủng vật chất này nhiều ít [thế nào], tạo thành một phương diện chủ yếu của [việc] căn cơ tốt hay xấu của người đó trong xã hội người thường, [điều] mà người tu luyện vẫn nói đến. Nhưng người thường dùng mắt thịt thì không thấy được, bởi vì người thường ở trong mê, chư vị ở trong mê nên mới để chư vị ở trong mê mà quay về. Bởi vì chính chư vị đã đẩy mình đến bước này, nên chư vị phải nhắm mắt mà tu trở về, không cho chư vị nhìn thấy chân tướng, nhìn thấy chân tướng thì không thể tu, bởi vì sẽ không tồn tại ngộ, nên cũng không tồn tại tu. Vừa thấy vừa tu thì ai không làm chứ? Vị Phật kia tại sao Ông mãi là ở tầng thứ kia, sao Ông không đề cao lên trên? Đương nhiên cái gì Ông cũng biết, Ông không tồn tại những vấn đề như tu luyện tâm tính; ở trong mê mới dễ tu. Có người còn nhấn mạnh rằng tôi nhìn thấy rõ ràng rồi tôi mới dễ tu, chư vị nhìn thấy rõ ràng thì chư vị không tu được. Còn có người nói tôi nhìn thấy rồi tôi mới tin, tôi không nhìn thấy thì tôi không tin. Chúng tôi luôn cho rằng kiểu người này là ngộ tính không tốt.

我剛才講了,這個功實質上是人修出來的。那麼我剛才講了,德,這個場存在人身體周圍,如果你德多你就能長高功;你德不多,當然,黑色物質通過吃苦之後,也可以轉化成白色物質,它不會消掉的,這種物質是不滅的。就說一個人,在修煉的時候實際上就是你空間場範圍之內的德轉化成功的,你真正的功力大小、層次高低的功是你自己的德轉化成的。怎麼轉化呢?過去在修煉人中有一句話(可不是在氣功界講的),叫作「修在自己,功在師父」。甚麼意思呢?就是你只要有一個願望去修煉那一門,你有個願望想修煉甚麼東西,你只是願望,而實際是師父在給你做。有人講意念活動,這麼意念那麼意念,甚麼問題都解決不了,它只是一個願望。而真正給你安鼎設爐、採藥、結丹,或者是給你形成個周天循環、通脈開穴等等都是師父做的。常人的思維沒有任何能量,常人之手根本就做不來這些事情。

Vừa rồi tôi đã giảng, công này thực chất là người ta tu mà ra. Vậy như tôi vừa giảng, trường ‘đức’ này tồn tại xung quanh thân thể người, nếu đức chư vị nhiều thì chư vị có thể tăng cao công; đức chư vị không nhiều, đương nhiên, vật chất màu đen thông qua chịu khổ rồi, cũng có thể chuyển hóa thành vật chất màu trắng, nó sẽ không tiêu mất, chủng vật chất này là bất diệt. Chính là nói một người, khi tu luyện thì trên thực tế chính là đức trong phạm vi trường không gian của chư vị chuyển hóa thành công; công lực lớn nhỏ, công tầng thứ cao thấp thật sự của chư vị là đức của bản thân chư vị chuyển hóa thành. Chuyển hóa thế nào? Trước đây trong những người tu luyện có một câu (chứ không phải trong giới khí công nói), gọi là “tu tại tự kỷ, công tại sư phụ”13. Có nghĩa là gì? Đó là chư vị chỉ cần có một nguyện vọng tu luyện môn đó, chư vị có nguyện vọng muốn tu luyện cái gì đó, chư vị chỉ là nguyện vọng, mà thực tế là sư phụ đang làm giúp chư vị. Có người giảng hoạt động ý niệm, ý niệm thế này ý niệm thế nọ, [mà] vấn đề gì cũng không giải quyết được, nó chỉ là một cái nguyện vọng. Mà người thật sự an đỉnh thiết lư, thái dược, luyện đan14 cho chư vị, hoặc là hình thành tuần hoàn chu thiên, thông mạch khai huyệt v.v. cho chư vị đều là sư phụ làm. Tư duy của người thường không có bất cứ năng lượng nào, tay của người thường hoàn toàn không làm được những việc này.

真正的功長起來,形成這些東西的機制,比那個精密儀器還要精密,非常複雜的,你怎麼能做的來?這是一句密傳的話,叫「修在自己,功在師父」,這是過去不能叫低層次上知道的。所以哪,師父看你修煉的不錯,心性提高上來了,宇宙特性對你制約的力量小了的時候,你就能長上功來。那麼這個時候師父就給你一種功,我們把它叫作一種長功的功能,在人身體周圍螺旋似的把你的德演化成功,螺旋似的往上長。長到頭頂之後,在頭頂就逐漸的形成一根功柱。隨著你的功力、層次不斷的提高的時候,這個功柱就不斷提高,這就是你層次高低、功力大小的功。你所發放的能量都來源於這裏。可不是那個丹,一會兒我就講那個丹。真正的層次是在這兒呆著。

Cơ chế mà thực sự khiến công tăng lên, hình thành những thứ này, còn tinh vi hơn những cỗ máy tinh vi [nhất], phức tạp phi thường; chư vị sao có thể làm được? Đây là một lời được mật truyền, gọi là “tu tại tự kỷ, công tại sư phụ”; đó là điều mà trước kia không thể cho tầng thứ thấp biết. Vì vậy, khi sư phụ thấy chư vị tu luyện được tốt, tâm tính đã đề cao lên, lực lượng mà đặc tính vũ trụ ước chế chư vị đã ít đi, thì chư vị có thể tăng công lên được. Vậy thì lúc đó sư phụ liền cấp cho chư vị một loại công, chúng tôi gọi nó là một loại công năng tăng công, theo hình xoáy ốc quanh thân thể con người lấy đức của chư vị diễn hóa trở thành công, tăng trưởng lên theo hình xoáy ốc. Sau khi tăng lên đến đỉnh đầu, trên đỉnh đầu dần dần hình thành một cột công trụ. Cùng với công lực, tầng thứ của chư vị không ngừng đề cao, khi ấy công trụ này cũng không ngừng đề cao; đây chính là công [xác định] tầng thứ cao thấp, công lực lớn nhỏ của chư vị. Năng lượng mà chư vị phát phóng ra đều bắt nguồn từ đây. Chứ không phải là đan, lát nữa tôi sẽ giảng cái đan kia. Tầng thứ thực sự là nằm ở chỗ này.

大家知道,佛教中講的果位,那就是你的功柱到哪個位置上了,修煉多高了,達到多高層次了,它就在哪兒。說有的人一打坐元神離體上多高了,說你再往高上。不行,上不去了,再上去害怕了就要掉下去了。為甚麼上不去了?就因為他的功柱就那麼高,那是他修煉的果位,他是坐著他的功柱上去的。在佛教中講了,修煉那麼高那就是他將來的去向。這個功完全是人修煉自己的心性,同化宇宙的特性,宇宙的特性不制約你了,那麼你的功就能長上來了,由德演化成功。這不是修出來的嗎?這種功全是靠人修心修出來的。

Mọi người biết rằng, quả vị được giảng trong Phật giáo, đó chính là công trụ của chư vị đã đến vị trí nào, tu luyện đã cao ngần nào, đạt đến tầng thứ cao bao nhiêu, nó là ở chỗ đó. Ví dụ có người hễ đả tọa thì nguyên thần ly thể lên cao chừng ấy, nói chư vị lên cao hơn nữa. Không được, không lên được, lên cao nữa sợ hãi rồi sẽ phải rớt xuống. Tại sao không lên được? Vì công trụ của họ cao ngần ấy thôi, đó là quả vị tu luyện của họ, họ là ngồi trên công trụ của họ mà lên. Trong Phật giáo giảng, tu luyện cao ngần nào thì chính là xu hướng tương lai của họ. Công này hoàn toàn là người ta tu luyện tâm tính của mình, đồng hóa với đặc tính của vũ trụ, đặc tính vũ trụ khống chế ước chư vị nữa, thế thì công của chư vị có thể tăng lên được, do đức diễn hóa trở thành công. Đây chẳng phải là tu ra hay sao? Loại công này hoàn toàn dựa vào người ta tu tâm mà tu ra được.

那麼動作那一部份是煉甚麼呢?是改變人體,初期你可以叫養生,最後叫長生,還有功能的加持。甚麼叫加持?用能量去加強它。還有個術類的東西的演化,各種生命體的演化,很複雜的。各種功形態的出現,都得有能量去把它加強你才能有,沒有這個能量甚麼都談不上。人出功的時候你根本發不出氣來,沒有。再發出來的是一種高能量物質,卻很少能夠體察出從體內發出來那個感覺。這就是我講的,在高層次上所談的這些個東西。但是過去一直視為天機,不准人講。這一次,我在辦班過程中都把它講出來了,還有許多高深的東西。目地是叫人真正能夠修煉,為人負責,我也確實是這樣在帶人,所以也不屬於甚麼隨便洩露天機,隨便不負責任的亂來。也確實收到了這樣一種效果,我們學員的心性提高的很快,現在發展也很快。

Thế thì phần động tác ấy là để luyện những gì? Là cải biến nhân thể, ban đầu chư vị có thể gọi là ‘dưỡng sinh’, cuối cùng gọi là ‘trường sinh’, còn có gia trì công năng. Thế nào gọi là gia trì? Là dùng năng lượng để gia cường chúng. Còn có diễn hóa của những thứ thuật loại, diễn hóa của các loại thể sinh mệnh, rất phức tạp. Sự xuất hiện của các chủng hình thái công, đều phải có năng lượng để gia cường cho chúng thì chư vị mới có, không có năng lượng này thì không có gì để nói. Khi người ta xuất công thì chư vị hoàn toàn không phát ra khí được, không có. Phát xuất ra là một loại vật chất cao năng lượng, nhưng rất ít [người] có thể thể nghiệm được cảm giác từ trong cơ thể phát xuất ra. Đây chính là điều tôi giảng, những điều được nói đến ở tầng thứ cao. Nhưng trước đây vẫn luôn cho là thiên cơ, không cho phép người ta giảng. Lần này, trong quá trình tôi mở lớp tôi đều giảng nó ra cả rồi, còn có rất nhiều điều cao thâm. Mục đích là để người ta thực sự có thể tu luyện, chịu trách nhiệm với con người, tôi cũng thực sự dẫn dắt người ta như thế, cho nên cũng không thuộc về tùy tiện tiết lộ thiên cơ gì cả, tùy tiện không chịu trách nhiệm mà làm loạn. Cũng thực sự đã thu được hiệu quả như thế này, tâm tính của học viên chúng ta đề cao rất nhanh, hiện nay phát triển cũng rất nhanh.

有的學員說,我從法輪大法學習班上下來,我的世界觀都轉變了,我一生不知怎麼活了這麼大歲數,我今天才知道為甚麼而活了。都是學員談的。就是跟大家講,真正修煉的東西過去是沒人講的,你不信你翻一翻古書,找一找《道德經》或者你翻一翻佛經,人家過去那些東西都是靠悟而不談的,我今天都把它給講出來了。講出來是講出來了,人類到了這一步,你再那樣去講他也不聽了,不信了,認為是說教而無實際的。但是講的再多他還存在一個悟,因為你畢竟看不見或者是看不清,你還得在迷中去修,還存在這樣一個問題。剛才我講的是這個功是怎麼長上來的。你看那古時的和尚他不煉功,他的功就長上來了。真正的層次高低、功力大小的功根本就不是煉出來的。

Có học viên nói rằng, từ lúc tôi tham gia lớp học Pháp Luân Đại Pháp, thế giới quan của tôi đều đã chuyển biến, cả đời tôi không biết sao sống đến ngần này tuổi rồi, đến hôm nay tôi mới biết vì điều gì mà sống. Đều là học viên nói. Tức là nói với mọi người rằng, những điều tu luyện chân chính trước đây là không có ai giảng cả, không tin chư vị thử giở sách cổ, thử tìm trong «Đạo Đức Kinh» hoặc là chư vị thử giở kinh Phật, trước kia những thứ này người ta đều là dựa vào ngộ chứ không nói, hôm nay tôi đem nó giảng hết cả ra rồi. Giảng ra thì là đã giảng ra rồi, nhân loại đã đến bước này rồi, các vị mà còn giảng như thế kia thì họ cũng không nghe, không tin, cho rằng là thuyết giáo mà không thực tế. Nhưng giảng nhiều đến mấy thì họ vẫn tồn tại một cái ngộ, bởi vì dù sao chư vị cũng không nhìn thấy hoặc không nhìn rõ, chư vị vẫn phải ở trong mê mà tu, vẫn có tồn tại vấn đề như thế. Vừa rồi tôi đã giảng công này tăng lên như thế nào. Chư vị xem hòa thượng thời xưa họ không luyện công, mà công của họ vẫn tăng lên. Công thật sự [xác định] tầng thứ cao thấp, công lực lớn nhỏ hoàn toàn không phải là luyện mà ra.

那麼那個動作是煉甚麼的呢?這個動作實質上就是剛才我講的,改變人的本體。但是要是沒有能量去加強它,它改變不了。你自己身體的分子細胞用高能量物質逐漸的充實它,你才能夠達到長生的目地。你沒有這個功、沒有這個能量你靠甚麼加持?紙上談兵沒有用。大家知道,有很多功能,除了師傳的之外,有很大一部份功能是人體自帶的,就是人人都有的,可是它甚麼作用都不起。有的人感覺說,我睡覺時做了個夢,第二天早上實現了;有的人說,我預見了甚麼事情,結果過幾天真的出現了;或者有的人感覺我幹一件甚麼事的時候,哎喲,我發現好像是甚麼時候幹過這麼一件事,可是在他一生中確實還沒幹過。這是怎麼回事呢?其實都是功能的體現,超前進入了將來,或者是進入了過去。可是你那個功能非常縹緲,甚麼也不是,沒有能量它也不好使,只能起到這麼一點作用。一旦有了能量把它充實起來了,這叫加持功能。用功力把它加強了,它才能變的強壯起來,好使起來,它才能起作用。說你不修你這顆心,你想得甚麼,甚麼都得不到。

Vậy động tác kia là để luyện những gì? Động tác ấy về thực chất chính là điều tôi vừa giảng, cải biến bản thể của người. Nhưng nếu không có năng lượng gia cường nó, thì nó không cải biến được. Tế bào phân tử của thân thể chư vị dùng vật chất cao năng lượng dần dần nạp đầy cho nó, thì chư vị mới có thể đạt được mục đích trường sinh. Chư vị không có cái công này, không có năng lượng này thì chư vị dựa vào cái gì để gia trì? Bàn việc quân sự trên giấy15 vô dụng. Mọi người biết rằng, có rất nhiều công năng, ngoài sư phụ truyền ra, thì có một phần rất lớn công năng là thân người tự mang theo, nghĩa là ai ai cũng có, nhưng chúng không khởi bất cứ tác dụng nào. Có người cảm giác kể rằng, lúc tôi ngủ nằm mơ, đến sáng hôm sau thành hiện thực rồi; có người nói rằng, tôi nhìn trước được sự việc gì đó, kết quả là mấy hôm sau xảy ra thật; hoặc là có người cảm thấy khi mình làm một việc gì đó, ái chà, phát hiện thấy dường như lúc nào đó đã từng làm sự việc này rồi, nhưng trong đời người đó thực sự chưa từng làm. Chuyện này là thế nào? Kỳ thực đều là thể hiện của công năng, vượt trước tiến nhập tương lai, hoặc tiến nhập quá khứ. Nhưng công năng đó của chư vị vô cùng mờ nhạt, không là gì cả, không có năng lượng chúng cũng dùng không được, chỉ có thể khởi một chút tác dụng thế thôi. Một khi có năng lượng [để] nạp đầy cho chúng, đó gọi là gia trì công năng. Dùng công lực để gia cường chúng, chúng mới có thể trở nên mạnh mẽ, trở nên dùng được, mới có thể khởi tác dụng. Nếu chư vị không tu cái tâm này của chư vị, chư vị muốn đắc cái gì, thì cái gì cũng không đắc được.

有些學員還自稱自己是法輪大法的師父。我們好多老學員都知道,誰要管他叫一句師父,他可嚇夠嗆的,他不敢稱自己為師,他說老師就一個,只有李老師是師父,我們都是弟子。敢稱師者一是求名之心在作怪,二是企圖亂法。浩瀚的宇宙,無數的佛、道、神,不同層次的主、天神都在學此法,誰敢稱自己是師父?不修心、不重德,你想在哪一門中修煉談何容易?正法修煉都得重德。那麼為甚麼動物附體等亂七八糟的它會有功?允許它在這個很低的層次下有一點靈氣,利用它在很低層次上叫人還業。你別看人得這個病、遭那個難,都是人自己欠下的,自己招來的。

Một vài học viên còn tự xưng mình là sư phụ của Pháp Luân Đại Pháp. Rất nhiều học viên cũ của chúng ta đều biết, ai mà gọi người đó một câu sư phụ, thì người đó kinh hãi lắm, họ không dám xưng mình là thầy, họ nói Thầy là chỉ có một, chỉ có thầy Lý là Sư phụ, chúng tôi đều là đệ tử. Kẻ dám xưng là thầy thì một là tâm cầu danh tác quái, hai là mưu đồ loạn Pháp. Trong vũ trụ mênh mông có vô số Phật-Đạo-Thần, các Chủ16, chư thiên thần ở các tầng thứ khác nhau cũng đều đang học Pháp này, hỏi ai dám xưng mình là sư phụ? Không tu tâm, không trọng đức, chư vị muốn tu luyện trong môn nào, nói sao dễ vậy? Tu luyện chính Pháp đều phải trọng đức. Thế tại sao những thứ loạn bát nháo như phụ thể động vật chúng lại có công? Cho phép chúng có một chút linh khí ở tầng thứ rất thấp này, lợi dụng chúng ở tầng thứ rất thấp để người ta hoàn nghiệp. Chư vị chớ thấy rằng người ta mắc bệnh này, chịu cái nạn nọ; đều là bản thân người ta mắc nợ, tự mình chiêu mời đến.

我談的可能高深一點,有人不理解。其實我告訴大家很簡單的一個理,修煉界就是講人的元神不滅,人的元神就是不滅的。說人死了根本就沒有死,我看就是沒有死。大家想一想,人的身體細胞不是由無數的分子構成的嗎?而分子不是由無數的原子組成的嗎?原子是由原子核、電子、中子組成的嗎?那麼構成原子的往下還有甚麼夸克,再往下還有中微子。我們現在科學只能認識到這一步,實際上離那個物質的本源物質還相差很遠,就是說人身體存在著那些個微觀的物質。大家想一想人的身體,在嚥氣死了的時候,他怎麼能夠因為他死掉了,他的原子核都不存在呢?他的原子、中子、電子都不存在呢?怎麼可能呢?那個原子核要發生分裂得在強大的熱量和重量撞擊下,才能使它分裂,常人的常規的力量根本就使它分裂不了。煉人爐這把火能夠使你身體的原子核發生分裂嗎?爆炸嗎?如果那把火真的能使你那個身體原子核發生爆炸,一個人身體存在的原子成份就可以摧毀一部份城市,是不是這樣?我們發現生命他根本就沒有銷毀。人死了只不過是你現有的,我們這個物質空間看到的這個形體它滅亡了,而在其它空間裏存在的這個身體都沒有死掉。

Điều tôi nói có thể cao thâm một chút, có người không hiểu. Thực ra tôi nói với chư vị một Lý rất đơn giản, giới tu luyện giảng nguyên thần của người bất diệt, nguyên thần của con người là bất diệt. Nói là người ta chết đi [nhưng] căn bản không hề chết, tôi thấy rằng không hề chết. Mọi người nghĩ xem, tế bào thân thể người chẳng phải do vô số phân tử cấu thành sao? Mà phân tử không phải do vô số nguyên tử tổ thành17 sao? Nguyên tử là do hạt nhân nguyên tử, điện tử, neutron tổ thành đúng không? Thế thì cấu thành nguyên tử xuống dưới nữa còn có hạt quark, xuống dưới nữa còn có neutrino. Khoa học của chúng ta hiện nay chỉ có thể nhận thức được đến bước này, trên thực tế còn cách vật chất bản nguyên rất xa, tức là thân thể người có tồn tại những vật chất vi quan kia. Mọi người thử nghĩ xem thân thể người, khi trút hơi thở chết đi, làm sao có thể vì họ chết đi rồi, thì hạt nhân nguyên tử của họ không tồn tại nữa? Nguyên tử, neutron, điện tử của họ đều không tồn tại nữa? Sao có thể được? Hạt nhân nguyên tử kia nếu phát sinh phân rã thì phải dưới nhiệt lượng cực lớn và va chạm rất mạnh mới có thể khiến chúng phân rã, sức mạnh thông thường của người thường hoàn toàn không thể khiến chúng phân tách. Lò hỏa thiêu thì ngọn lửa đó có thể khiến hạt nhân nguyên tử trong thân thể chư vị xảy ra phân rã không? Nổ tung không? Nếu như ngọn lửa đó thực sự có thể khiến hạt nhân nguyên tử trong thân thể chư vị phát nổ, thì thành phần nguyên tử tồn tại trong thân thể người có thể phá hủy một phần thành phố, phải vậy không? Chúng tôi phát hiện ra rằng sinh mệnh căn bản không hề bị tiêu hủy. Người ta chết đi chẳng qua chỉ là cái hình thể hiện hữu này của chư vị, cái mà nhìn thấy trong không gian vật chất này của chúng ta bị diệt vong, còn cái thân thể tồn tại trong không gian khác đều không hề chết đi.

我說的這個空間也不很難理解,現在科學認為有甚麼四維空間;還有的說有十一維空間;有個前蘇聯科學家已明確的指出,如果宇宙是大爆炸形成的,在那一瞬間不可能只炸出一個時空來,他認為應該有二十幾個時空同時存在。人家已經明確的指出了,除了我們這個物質空間、這個時間,這個時空存在的同時,還有另外的時空存在,已經明確指出這個問題。許多科學家也在研究這個問題,探討這個問題。當然這個宇宙空間的存在形式是極其複雜的。我說個最簡單的空間形式。我們人類生存在哪個空間呢?大家知道,我們人看到的最大的物質就是星球了,星球組成銀河系、各個星系。我們人類接觸到的最小的物質就是分子。我們人生活在分子與星球之間這個空間當中,我們覺的它是一個非常廣闊的空間,不可思議的大。那麼大家想一想,那個分子和原子之間存在的那個空間是甚麼樣的?我說它也是極其廣闊的,非常大。當然你不能站在常人這個理論之中,用常人的概念認識物質世界的思維去認識它。你如果進入它那個空間去認識它的時候,你發現它也是一個極其廣闊的空間。

Không gian mà tôi nói đây cũng không khó lý giải lắm, khoa học hiện nay cho rằng có nào là không gian bốn chiều; còn có người nói có không gian mười một chiều; có nhà khoa học Liên Xô cũ đã minh xác chỉ ra, nếu vũ trụ hình thành từ vụ nổ lớn, thì vào tích tắc đó không thể chỉ nổ xuất ra một thời không, ông cho rằng phải có hai mươi mấy thời không đồng thời tồn tại. Người ta đã minh xác chỉ ra rằng, ngoài không gian vật chất này, thời gian này của chúng ta, đồng thời với thời không này tồn tại, còn có thời không khác tồn tại, đã minh xác chỉ ra vấn đề này rồi. Rất nhiều nhà khoa học cũng đang nghiên cứu vấn đề này, tìm hiểu vấn đề này. Đương nhiên hình thức tồn tại của không gian vũ trụ này là cực kỳ phức tạp. Tôi nói về một hình thức không gian đơn giản nhất. Nhân loại chúng ta sinh tồn trong không gian nào? Mọi người biết rằng, vật chất lớn nhất mà nhân loại chúng ta nhìn thấy chính là ngôi sao, các ngôi sao tổ thành hệ Ngân Hà, các thiên hà. Vật chất nhỏ nhất mà nhân loại chúng ta tiếp xúc được chính là phân tử. Con người chúng ta sinh sống trong không gian giữa phân tử và ngôi sao, chúng ta cảm thấy nó là một không gian hết sức rộng lớn, lớn đến mức bất khả tư nghị18. Thế thì mọi người thử nghĩ xem, không gian mà tồn tại giữa phân tử và nguyên tử sẽ như thế nào? Tôi nói rằng nó cũng cực kỳ rộng lớn, vô cùng lớn. Đương nhiên chư vị không thể đứng ở lý luận của người thường này, dùng khái niệm tư duy nhận thức thế giới vật chất của người thường để nhận thức nó. Nếu chư vị tiến nhập vào không gian kia mà nhận thức nó, khi ấy chư vị sẽ phát hiện ra rằng nó cũng là một không gian cực kỳ rộng lớn.

那麼原子和夸克之間呢?夸克和中微子之間呢?那麼在極微觀下呢?釋迦牟尼講了一粒沙裏含三千大千世界。他的三千大千世界學說是:我們銀河系中有三千個像我們人類一樣有生命智慧的星球存在。他說一粒沙裏含三千大千世界,如果他講的是真的話,大家想一想,那一粒沙子裏邊微觀下就像銀河系這麼豐富,有人類社會像人一樣的存在。那麼大家往下追查下去,那個沙子裏邊是不是還有河流、沙子?那麼那個沙子的沙子裏邊是不是還有三千大千世界?那麼那個沙子的沙子裏邊是不是還有三千大千世界?往下追查下去,釋迦牟尼發現是無窮盡的。因為人避開這個分子構成的眼睛去看,那才能看到宇宙的真相。達到了層次越高的,他在微觀下才看的越微觀,宏觀上看的越大。釋迦牟尼沒看到底,也沒看到宇宙的最終有多大,所以他最後晚年講了一句話:「其大無外」,他不知道多大;「其小無內」,小的看不到底。就是從釋迦牟尼所講的和現代物理學上的認識,我說它也沒有甚麼抵觸的,很有道理的。剛才我講了,我說從理論上可以解釋的通的,這是我的認識,我講的。你怎麼能隨著你的嚥氣,原子核都沒了;你隨著煉人爐一把火,你就能發生核分裂,我說就不能。所以我說人肉體雖然死了,可是他的生命沒死。我們講物質不滅也是對的,在另外空間裏也是物質不滅的。

Thế còn giữa nguyên tử và hạt quark thì sao? Giữa hạt quark và neutrino thì sao? Và ở mức cực vi quan thì sao? Thích Ca Mâu Ni đã giảng trong một hạt cát có ba nghìn đại thiên thế giới. Học thuyết tam thiên đại thiên thế giới của Ông là: Trong hệ Ngân Hà của chúng ta có ba nghìn tinh cầu có tồn tại sinh mệnh với trí tuệ giống như nhân loại chúng ta. Ông nói trong một hạt cát có ba nghìn đại thiên thế giới, nếu điều ông giảng là thật, thì mọi người nghĩ xem, bên trong hạt cát kia ở mức vi quan cũng sẽ phong phú như hệ Ngân Hà, có tồn tại xã hội nhân loại giống như con người. Vậy thì mọi người tiếp tục truy xuống dưới, bên trong hạt cát kia có phải còn có dòng sông, hạt cát? Thế thì bên trong hạt cát của hạt cát kia phải chăng còn có ba nghìn đại thiên thế giới? Vậy thì bên trong hạt cát của hạt cát kia phải chăng còn có ba nghìn đại thiên thế giới? Tiếp tục truy xét xuống dưới, Thích Ca Mâu Ni phát hiện là vô cùng tận. Bởi vì khi con người tránh dùng cặp mắt do phân tử cấu thành này mà nhìn, thì mới có thể nhìn thấy được chân tướng vũ trụ. Đạt đến tầng thứ càng cao, thì ở mức vi quan họ mới nhìn được càng vi quan hơn, ở mức hồng quan19 mới nhìn được càng lớn hơn. Thích Ca Mâu Ni chưa nhìn thấy đến tận cùng, cũng chưa thấy được vũ trụ cuối cùng to lớn nhường nào, cho nên những năm cuối đời Ông nói một câu: “Kỳ đại vô ngoại”, Ông không biết lớn đến đâu; “Kỳ tiểu vô nội”, nhỏ đến mức không thấy đến tận cùng. Từ điều mà Thích Ca Mâu Ni nói và nhận thức của vật lý học hiện đại, tôi nói rằng nó cũng không có mâu thuẫn, rất có đạo lý. Vừa rồi tôi đã giảng, tôi nói rằng về mặt lý luận có thể giải thích được thông, đây là nhận thức của tôi, là điều tôi giảng. Khi chư vị trút hơi thở cuối, làm sao có thể khiến hạt nhân nguyên tử mất đi; bằng ngọn lửa của lò hỏa thiêu mà chư vị có thể xảy ra phân rã hạt nhân, tôi nói rằng không thể nào. Vì vậy, tôi nói mặc dù nhục thể của con người chết đi, nhưng sinh mệnh của họ không chết. Chúng ta giảng vật chất bất diệt cũng là đúng, ở trong không gian khác cũng là [giảng] vật chất bất diệt.

我們現在的科學家認為,現在人類只能認識到,到了真空的時候就是沒物質了。其實那只是人類現有科學發展到那一步的認識。我說到了真空的時候還有物質,真空本身就是物質。因為它再往微觀下已經看不到了,真空離生命的本源的微觀物質還遠去了。物質的最微觀物質是甚麼?本源物質是甚麼?我說現在科學家,用現有的研究方法再過多少年也認識不了。因為它發展的這條西方科學路線是最慢的,人類選擇了一個最不完善的發展方法。中國古代的科學發展我說還是比較正確的,它直接對人體、生命、宇宙去研究。大家知道這個外星人,那個飛碟飛來飛去的,來無蹤去無影,速度相當快,不可思議,飛碟甚至可以變大變小。它為甚麼會這樣呢?就是它的科技研究發展的方法不一樣。它可以走另外的空間的。由於時空的差異,它說來就來,說到就到,說走也就走了。

Những nhà khoa học hiện nay của chúng ta cho rằng, nhân loại hiện nay chỉ có thể nhận thức được, khi đến ‘chân không’ là không có vật chất nữa. Thực ra đó chỉ là nhận thức mà khoa học hiện hữu của nhân loại phát triển đến bước này. Tôi nói rằng đến chân không rồi vẫn có vật chất, bản thân chân không chính là vật chất. Vì nó xuống vi quan nữa thì đã không nhìn thấy được rồi, ‘chân không’ còn cách vật chất vi quan [là] bản nguyên của sinh mệnh còn xa lắm. Vật chất vi quan nhất của vật chất là gì? Vật chất bản nguyên là gì? Tôi nói rằng các nhà khoa học hiện nay, dùng phương pháp nghiên cứu hiện hữu thì qua bao nhiêu năm nữa cũng không nhận thức được. Vì con đường phát triển khoa học của phương Tây là chậm nhất, nhân loại đã lựa chọn một phương pháp phát triển không hoàn thiện nhất. Tôi nói rằng phát triển khoa học của Trung Quốc cổ đại là tương đối chính xác, nó trực tiếp nhắm vào nhân thể, sinh mệnh, vũ trụ mà nghiên cứu. Mọi người biết rằng người ngoài hành tinh ấy, đĩa bay kia bay qua bay lại, đến không ai hay đi không ai biết20, tốc độ nhanh lắm, bất khả tư nghị, đĩa bay thậm chí còn có thể phóng to thu nhỏ. Tại sao nó lại như vậy? Chính là vì phương pháp nghiên cứu phát triển khoa học kỹ thuật của nó là khác. Nó có thể đi ở không gian khác. Do sự sai khác về thời không, nó nói tới là tới, nói đến là đến, nói đi là đi21.

我剛才講功,談到這個問題,實際上我們動手去煉的那個功,只不過是術類的東西,加持功能和改變身體、長生。可是要沒有那個能量,沒有層次高低的功,你就長生不了。反過來我們在最低層次跟大家談,你不重視心性的修煉,你不重德,你的病都祛不了。你做體操能祛病嗎?祛不了。氣功它不是體操,它是超常的手段來改變人的,那麼你就必須得用這個超常的理去要求你。有的人練功的時候挺虔誠,可是一出門就不是他了。在社會上為所欲為,為了個人那點蠅頭小利,互相去爭啊、鬥啊,甚至為一口氣去鬥,你說你那個病能好嗎?那是絕對好不了。剛才我談一談人為甚麼他不長功。其實這還是一方面的原因。

Vừa rồi tôi giảng công, nhắc đến vấn đề này, thực ra cái công mà chúng ta động thủ để luyện kia, chẳng qua là thứ thuật loại, gia trì công năng và cải biến thân thể, trường sinh. Nhưng nếu không có năng lượng kia, không có công [xác định] tầng thứ cao thấp, thì chư vị không trường sinh được. Xoay lại [mà xét] ở tầng thứ thấp nhất chúng tôi nói với mọi người, nếu chư vị không chú trọng tâm tính mà tu luyện, chư vị không trọng đức, thì bệnh của chư vị cũng không khỏi được. Chư vị tập thể thao có thể hết bệnh không? Không khỏi được. Khí công không phải thể thao, nó là phương pháp siêu thường để cải biến con người, thế thì chư vị ắt phải dùng Lý siêu thường để yêu cầu chư vị. Có người khi luyện công rất thành kính, nhưng vừa ra khỏi cửa thì đã không còn là người đó nữa. Trong xã hội muốn làm gì thì làm nấy, vì chút đỉnh lợi ích cá nhân, mà tranh nhau, đấu nhau, thậm chí chỉ vì một khẩu khí mà đấu; chư vị nói xem bệnh kia có khỏi được không? Tuyệt đối không thể khỏi được. Vừa rồi tôi nói một chút tại sao người ta không tăng công. Kỳ thực đây chỉ là nguyên nhân ở một phương diện.

還有另外一方面不長功的原因,說你不祛病、不長功的原因,就是你不知道高層次中的法,不知道高層次中的理,你也無法修煉的。這麼多年大家都想往高層次修煉,還抱著那個安鼎設爐、採藥煉丹,脈怎麼通啊,大小周天,你練去吧,這一輩子也是那玩意兒。練氣不是最終目地,它啥也不是,練氣最終目地是淨化身體,為高層次上修煉打基礎。同時在練氣這個層次上,如果是走丹道的,他就要形成丹,開穴,通幾根脈。它也是在低層次上打基礎,可是還不算煉功,它只不過是打一點基礎,把身體淨化下來,練氣就是這個目地。有的人因為身體裏那個氣存的滿滿的,覺的很不錯哪。我說你就是個大氣包,你把它當成功了,那哪是功呢?說發氣給人治病,那純粹是一種錯誤的認識。那氣怎麼能治病呢?咱們冷靜的想一想,你身體也是氣,我身體也是氣,常人與常人之間都是氣。只不過你勞宮穴打開了,或者是你哪個穴打開了,你能使這個氣發出來或者是納進去,那不還是氣嗎?同等層次之間的物體是沒有制約作用的。你也是氣,我也是氣,你就給人家發氣治病了?弄不好他的氣把你給治了,是不是這樣?只有超出這個層次的東西,才能制約低層次上的東西,那個功才能夠真正的起到這樣一種作用。

Còn có nguyên nhân không tăng công ở một phương diện khác, nguyên nhân chư vị không khỏi bệnh, không tăng công được, chính là nếu chư vị không biết Pháp tại cao tầng, không biết Lý tại cao tầng, thì chư vị cũng không cách nào tu luyện. Bao nhiêu năm nay mọi người đều muốn tu luyện lên tầng thứ cao, mà vẫn còn ôm giữ nào là an đỉnh thiết lư, thái dược luyện đan, thông mạch như thế nào, đại [chu thiên] tiểu chu thiên; chư vị cứ luyện đi, cả đời này cũng chỉ [giới hạn ở] những thứ đồ đó thôi. Luyện khí không phải là mục đích cuối cùng, nó không là gì cả; mục đích cuối cùng của luyện khí là tịnh hóa thân thể, tạo cơ sở cho tu luyện tại tầng thứ cao. Đồng thời ở tầng thứ luyện khí, nếu là tẩu đan đạo22, thì họ phải hình thành đan, khai huyệt, thông mấy cái mạch. Đó cũng là tạo cơ sở ở tầng thấp, nhưng vẫn không tính là luyện công, đó chỉ bất quá là tạo một chút cơ sở, khiến thân thể được tịnh hóa, luyện khí chỉ là mục đích đó thôi. Có người vì thấy thân thể chứa đầy khí, bèn cảm thấy khá lắm. Tôi nói rằng chư vị chỉ là cái bao khí to, chư vị lại coi nó là công; nó đâu phải là công? Nói rằng phát khí trị bệnh cho người khác, đó thuần tuý là một loại nhận thức sai lầm. Khí kia làm sao có thể trị bệnh? Chúng ta trầm tĩnh lại nghĩ thử xem, thân thể ngươi cũng là khí, thân thể của ta cũng là khí, giữa người thường với người thường đều là khí. Chẳng qua huyệt lao cung của chư vị đã mở, hoặc là huyệt nào đó của chư vị đã mở, chư vị có thể khiến khí phát ra hoặc nạp vào, đó chẳng phải vẫn là khí sao? Vật chất giữa các tầng thứ đồng đẳng là không có tác dụng chế ước. Ngươi cũng là khí, ta cũng là khí, mà chư vị phát khí trị bệnh cho người ta ư? Không chừng khí của họ còn trị cho chư vị ấy chứ, có phải vậy không? Chỉ có thứ siêu xuất khỏi tầng thứ này, mới có thể chế ước những gì ở tầng thứ thấp; cái công kia mới có thể thực sự khởi tác dụng như vậy.

前些年給人造成一種錯誤認識,有許多氣功師出來普及氣功,他甚至於自己沒有功,他也在發功。為甚麼他好像也能發出功呢?氣功的出現那是天象造成的,有許多師父也不叫當事人知道,給你個管道,你一發功他就供給你。這個假氣功師就像個自來水龍頭一樣。他沒煉過功,他也沒有功,他一發就像自來水龍頭打開了,那邊就給他輸送。他不發了那邊就像自來水龍頭關上了,他本身沒有功。給他功的目地,讓他自己修煉自己,做個好人,做好事,提高他自己,開發他自己。在複雜的人群社會中,他自己把自己的心修好,長上來。可是有很多氣功師他不明白,他以為給他這個功幹啥哪,他也不知道哪來的,反正是從外邊來的。他以為叫他發財,當氣功師出名。現在這些人所剩無幾,所剩下的還有一些附體的,大部份是附體的。對人來說那也是夠可怕的,你別看他把自己當作氣功師,名聲很大的。你再過兩年看看,他會像植物人一樣的,他的身體的精華全被提走了。因為魔它也抓住了宇宙理的空子了,不失者不得,我不能白給你功,你掙那麼多錢,出了名,我也得要你的東西,對不對?所以它拿你的東西,合情合理拿的。附體實際上是這個人自己招來的,有的人給人看完病他自己反倒這不好、那不好,你自己招來的病。

Mấy năm trước khiến người ta tạo nên một loại nhận thức sai lầm, có rất nhiều khí công sư xuất hiện phổ cập khí công, bản thân họ thậm chí không có công, mà họ cũng phát công. Tại sao họ có vẻ như cũng có thể phát xuất công? Sự xuất hiện của khí công là do thiên tượng tạo thành, có rất nhiều sư phụ cũng không cho người đương sự biết, cấp cho chư vị một cái ống, chư vị hễ phát công họ liền cung cấp cho chư vị. Những khí công sư giả này cũng giống như vòi nước. Họ chưa từng luyện công, họ cũng không có công, họ hễ phát thì giống như vòi nước được mở ra, phía bên kia23 liền chuyển đến cho họ. Họ không phát nữa thì bên kia giống như vòi nước khóa lại, bản thân họ không có công. Mục đích cấp công cho họ, là để tự họ tu luyện bản thân, làm người tốt, làm việc tốt, đề cao bản thân họ, khai phát bản thân họ. Nơi xã hội quần thể người phức tạp, mà tự họ tu tâm của bản thân cho tốt, tăng trưởng lên. Nhưng có rất nhiều khí công sư họ không minh bạch, họ tưởng rằng cấp công này cho họ để làm gì đó, họ cũng không biết từ đâu đến, nói chung là từ bên ngoài đến. Họ tưởng rằng là để họ phát tài, làm khí công sư nổi danh. Hiện nay những người này không còn lại mấy, còn sót lại có một số [bị] phụ thể, đại bộ phận là phụ thể. Đối với con người mà nói thì [bị phụ thể] đáng sợ lắm, chư vị chớ thấy họ đang làm khí công sư, thanh danh rất lớn. Chư vị để mấy năm nữa xem, họ sẽ giống như người thực vật, tinh hoa của thân thể họ bị lấy đi hết rồi. Bởi vì ma nó cũng nắm chắc chỗ sơ hở của Lý vũ trụ, bất thất giả bất đắc, ta không thể cấp công không cho ngươi, ngươi kiếm được nhiều tiền thế, nổi danh rồi, ta cũng phải đòi mấy thứ của ngươi, đúng không? Bởi vậy nó lấy các thứ của chư vị, lấy một cách hợp tình hợp lý. Phụ thể thực chất là bản thân người đó tự chiêu mời đến, có người khám bệnh cho người khác xong thì ngược lại bản thân họ lại chỗ này không khỏe, chỗ kia không khỏe, bệnh do chư vị tự chiêu mời đến.

那麼這個丹是甚麼呢?有的人以為這個丹,提點這個丹田氣做點甚麼事。甚至於有一種錯誤認識,我提丹田氣幹甚麼幹甚麼,這就是氣功了。我說那是糟蹋氣功。氣功是一個博大精深的東西,本身是一個按照宇宙大法修煉的東西。噢,你惚兮恍兮的提點丹田氣幹點甚麼就是氣功,我說那提點丹田氣惚兮恍兮的上廁所是甚麼?你不就是糟蹋氣功了嗎?不能這樣去認識。他的內涵是非常大的,不是那麼簡單的東西。說人的這個丹,你要叫我看,實質上就是一顆炸彈。人在修煉到最後一步開功,它要爆炸,佛教叫開悟。在那一瞬間要爆炸的。這一炸,就把自己的百脈炸開,身體所有的穴炸開,命門炸開,把功能釋放出來。天目炸到你所在的層次極高點,看到了你所在層次宇宙中存在的真相,它是幹這個用的。它就是一顆炸彈,其它甚麼作用都不起。大家看到修的好的和尚百年之後燒出舍利子來了,就是在和尚臨圓寂的前幾天都要炸丹的。轟的一聲炸開了,他甚麼都明白了,但是他不在常人中說,誰也不知道,別人也感受不到。這一炸丹炸碎了,這個空間的部份像石頭一樣。我們不修丹,為甚麼不修丹?我們認為丹是不動的,除了能裝點能量外沒有太大作用。你看那和尚,死後燒出舍利子,有光澤、很堅硬,有能量存在,測定甚麼物質測定不出來。它是集合採集另外空間的物質和我們德的這種演化成功的物質構成的東西,所以科學家現在認識不到是甚麼物質。它不是我們常人社會中的物質。有的人硬解釋、亂解釋,說那個丹是牙、是骨頭。我說那不是亂解釋嗎?常人怎麼燒不出來呢?為甚麼和尚、修煉的人能燒出來呢?

Thế thì ‘đan’ này là gì? Có người tưởng rằng cái đan này, đề một chút khí đan điền này làm chút việc gì đó. Thậm chí còn có một loại nhận thức sai lầm, tôi đề khí đan điền [dẫn đi] làm gì đó làm gì đó, [vậy] đây chính là khí công rồi. Tôi nói rằng đó là chà đạp khí công. Khí công là một điều bác đại tinh thâm, vốn là những điều tu luyện chiểu theo Đại Pháp vũ trụ. À, chư vị mơ mơ hồ hồ đề một chút khí đan điền làm chút gì đó thì là khí công rồi, tôi nói thế thì mơ mơ màng màng đề chút khí đan điền rồi đi nhà vệ sinh thì là gì? Chư vị chẳng phải là chà đạp khí công sao? Không thể nhận thức như thế được. Nội hàm của nó vô cùng rộng lớn, không phải điều đơn giản như vậy. Còn nói về cái đan này của con người, nếu chư vị bảo tôi nhìn nhận, thì thực chất chính là một quả bom. Người ta khi tu luyện đến bước cuối cùng khai công, nó cần nổ tung, Phật giáo gọi là khai ngộ. Trong nháy mắt đó sẽ nổ tung. Nó nổ sẽ khiến cho trăm mạch24 của bản thân nổ khai ra, tất cả các huyệt trên thân thể nổ khai, huyệt mệnh môn nổ, phóng thích công năng xuất ra. Thiên mục nổ đến điểm cực cao trong tầng thứ sở tại của chư vị, nhìn thấy chân tướng tồn tại trong vũ trụ ở tầng thứ sở tại của chư vị, nó là có tác dụng ấy. Nó chính là một quả bom, không có tác dụng gì khác cả. Mọi người thấy rằng hòa thượng mà tu tốt sau khi qua đời hỏa thiêu ra xá lợi tử, chính là vào mấy ngày trước khi hòa thượng sắp viên tịch thì cần nổ đan. Ầm một tiếng là nổ khai rồi, ông hiểu ra tất cả, nhưng ông không nói ra nơi người thường, không ai biết, người khác cũng không cảm nhận được. Hễ đan nổ thì là nổ vỡ tan, phần [còn lại] ở không gian này tựa viên đá. Chúng ta không tu đan, tại sao không tu đan? Chúng tôi cho rằng đan là bất động, ngoài việc có thể chứa một chút năng lượng ra thì không có tác dụng lớn lắm. Chư vị xem hòa thượng kia, sau khi chết hỏa thiêu ra xá lợi tử, lấp lánh, rất cứng, có năng lượng tồn tại, [thử] xét nghiệm xem là vật chất gì thì không xét nghiệm ra được. Nó là thứ cấu thành từ vật chất tập hợp chọn lọc từ không gian khác cùng với vật chất do đức của chúng ta diễn hóa trở thành công, vì vậy các nhà khoa học hiện nay không nhận thức được là vật chất gì. Đó không phải vật chất trong xã hội người thường chúng ta. Có người cứ cố giải thích, giải thích loạn cả lên, nói rằng đan kia là răng, là xương. Tôi nói đó chẳng phải là giải thích loạn là gì? Người thường sao hỏa thiêu không có? Tại sao hòa thượng, người tu luyện hỏa thiêu thì lại có?

剛才我講了一下關於真正往高層次上修煉的道理,不管你是哪一門、哪一派的。那麼有的人可能想了,說這個山裏頭修煉的老道,或者是按照佛家方法閉關修煉的一些人,可能你曾經拜過這樣的人,他也沒有按照這個真、善、忍去修,他怎麼修出來的?我告訴你他怎麼修的。他可苦哪,他修很多年很多年才能長上一點點功來。可是哪,他在深山老林裏修煉,避開常人社會了,他的功是不鎖的。而在常人中修煉功是鎖的,就是叫你漸悟的修,也要鎖上一部份的,鎖上一半的,所以你沒有那麼大的本事,你層次很高,你發揮不出來。可是在深山老林裏,不入常人這個世俗中來,他不干涉常人中的事情,那麼他是開放修的,不下鎖的。那麼他有一點功,他的本事就顯的很大,因為開放嘛。實際上他修的很苦,很長時間只能長出一點功,他還不知道。

Vừa rồi tôi giảng một chút về đạo lý chân chính tu luyện lên tầng thứ cao, bất kể chư vị là môn nào, phái nào. Vậy thì có người có lẽ nghĩ rằng, trong núi có lão đạo [sĩ] tu luyện, hoặc một số người bế quan25 tu luyện chiểu theo phương pháp Phật gia, có thể chư vị đã từng bái lạy những người như vậy, họ cũng không chiểu theo Chân-Thiện-Nhẫn mà tu, vậy sao họ tu xuất lai? Tôi nói cho chư vị họ tu như thế nào. Họ rất khổ, họ tu rất nhiều năm rất nhiều năm mới tăng lên được một chút xíu công. Nhưng mà, họ tu luyện trong núi sâu rừng già, xa lánh xã hội người thường, [nên] công của họ không bị khóa. Còn tu luyện trong người thường thì công bị khóa, ngay cả để chư vị tu trong tiệm ngộ, cũng phải khóa lại một bộ phận, khóa một nửa [chẳng hạn], cho nên chư vị không có bản sự26 lớn như thế, tầng thứ chư vị rất cao, [nhưng] chư vị không phát huy được. Nhưng trong núi sâu rừng già, không nhập thế tục nơi người thường, họ không can thiệp các việc nơi người thường, vậy thì họ là khai mở mà tu, không đặt khóa. Như vậy họ có một chút công, [mà] bản sự của họ thể hiện ra lại rất lớn, vì là khai phóng mà. Thực tế thì họ tu rất khổ, thời gian rất lâu chỉ có thể tăng một chút công, họ vẫn không biết [điều ấy].

我講了八萬四千法門鋪下來了,中間是大道修煉,大法修煉的。在邊緣上,普度眾生,各種人都來學來了。他學那麼高開悟了,他就能修那麼高,他修不了再高,他自己的根基造成的,修這麼高就開悟了。有修這麼高開悟的(有手勢);有修這麼高開悟的;有修這麼高開悟的;有修這麼高開悟的;有修的很低就開悟了。那麼他開悟了他就看到這一層的理了,高了他看不見。那麼修這麼高他就只能看這麼高理了,可是他也在帶徒弟,那麼他就講他所見到的理。八萬四千法門,小法小道非常多,而且越往邊緣上,說道越多越複雜。越往中間大道、大法修煉就越簡單,抓住中心去修就比較快。我們帶人帶的比較快,為甚麼快呢?有些學員改變起來,功長起來簡直不可思議。不得法,你一生你可能走不出氣這個層次。

Tôi giảng rằng tám vạn bốn nghìn pháp môn trải ra, ở giữa là đại đạo tu luyện, đại pháp tu luyện. Ở biên duyên, phổ độ chúng sinh, các loại người đều đến học. Họ học cao đến đó thì khai ngộ, họ chỉ có thể tu cao đến thế, họ không tu cao hơn được nữa, đó là căn cơ của họ tạo thành, tu cao đến đây thì khai ngộ. Có người tu cao đến đây thì khai ngộ (Sư phụ làm thế tay); có người tu đến đây thì khai ngộ; có người tu đến đây thì khai ngộ; có người tu đến đây thì khai ngộ; có người tu rất thấp đã khai ngộ rồi. Như vậy họ khai ngộ rồi thì họ sẽ nhìn thấy Lý của một tầng này, cao hơn nữa thì họ không nhìn thấy. Vậy thì tu cao ngần này thì họ chỉ có thể nhìn thấy Lý cao ngần này; nhưng mà họ cũng dẫn dắt đồ đệ, thế là họ giảng về Lý mà họ thấy được. Tám vạn bốn nghìn pháp môn, tiểu pháp tiểu đạo hết sức nhiều; hơn nữa càng về biên duyên, thì thuyết đạo càng nhiều càng phức tạp. Càng gần trung gian đại đạo, đại pháp thì tu luyện càng giản đơn, nắm chắc trung tâm mà tu thì rất nhanh. Chúng tôi dẫn dắt người ta được rất nhanh, tại sao nhanh? Có những học viên bắt đầu cải biến, mà công tăng lên đến mức rất khó tin. [Nếu] không đắc Pháp, cả đời chư vị có thể cũng không bước ra khỏi tầng khí.

我在九堂課的班上,只要你能修煉,我在九堂課中就給你推過去。人在修煉過程中那個層次突破也非常快。有許多修道的人跟我講,我也跟他們講,我說你看看我這些學員這個功,比起你們來如何呀?他們覺的不可思議。這功長的確實不可思議。因為我們抓到了根本去修的,抓住人這顆心去修,這才是關鍵的,所以就非常快。在山裏修的和一些出家人,他們在漫長的歲月去修,吃了很多苦,他就認為他是吃苦才修上來的。實質上是在漫長的歲月中,慢慢的磨去了他常人中執著的那顆心,他才長上來的。我們現在一上來就針對人那顆心去修,你的執著心,妒嫉心,歡喜心,各種心,我們就抓住這些東西去修,都給你把這些東西修下去,所以它就快。這個問題我就講這麼多了。

Tôi trong lớp học chín ngày, chỉ cần chư vị có thể tu luyện, tôi trong khoá chín buổi học này có thể đẩy chư vị vượt qua. Trong quá trình tu luyện người ta đột phá tầng thứ cũng nhanh chóng phi thường. Có rất nhiều người tu Đạo nói với tôi, tôi cũng nói với họ rằng, tôi nói rằng các vị thấy công của những học viên này của tôi, so với công của các vị thì thế nào? Họ cảm thấy bất khả tư nghị. Công này tăng trưởng đúng là bất khả tư nghị. Bởi vì chúng ta nắm đúng căn bản mà tu, nắm chắc cái tâm con người mà tu, đây mới là then chốt, cho nên nhanh chóng phi thường. Những người tu trong núi và một số người xuất gia, họ tu qua những năm tháng lâu dài, đã chịu rất nhiều khổ, nên họ liền cho rằng họ vì chịu khổ mới tu lên được. Thực chất là những năm tháng đằng đẵng ấy, dần dần mài mòn đi tâm chấp trước nơi người thường của họ, nên họ mới tăng lên được. Chúng ta hiện nay ngay từ đầu đã nhắm vào cái tâm con người kia mà tu, những tâm chấp trước, tâm tật đố, tâm hoan hỷ của chư vị, các chủng tâm, chúng ta nắm chắc những thứ này mà tu, để chư vị tu bỏ những thứ này đi, cho nên nó mới nhanh. Vấn đề này tôi chỉ giảng bấy nhiêu thôi.

有許多人還想學法輪大法,又沒有參加過學習班,我也可以給你們簡單的介紹介紹法輪大法。我這個法輪大法是一種性命雙修的功法。真正性命雙修的功法他有個特點,對人的身體改變來的非常迅速。同時,外觀上和常人有很大差異,所以我們有許多學了法輪大法的老學員,甚至於老年人,皮膚變的很細嫩,白裏透紅,身體很強健。過去走路上台階都累,現在爬幾層樓不氣喘,不心跳,很舒服,也不累。過去走幾步就不行了;現在騎車簡直就像有人推你一樣。我說這個情況,我們在座的老學員,我問問你們是不是這個情況?(齊聲:是!)我們這是普遍存在的現象。我這裏可不是說個別的哪個學員這樣,它是非常普遍的,真正性命雙修的功法就可以達到這一點。在外表上改觀非常大,許多老年人臉上皺紋都變的稀少,甚至沒有了。同時在生理上的變化也很大。因為時間關係,這一點我不講了。

Có rất nhiều người muốn học Pháp Luân Đại Pháp, lại chưa từng tham gia lớp học, tôi cũng có thể giới thiệu giới thiệu một cách đơn giản cho chư vị về Pháp Luân Đại Pháp. Pháp Luân Đại Pháp này của tôi là một loại công pháp tính mệnh song tu. Công pháp tính mệnh song tu chân chính có đặc điểm, cải biến về thân thể người vô cùng mau lẹ. Đồng thời, nhìn bên ngoài so với người thường có khác biệt rất lớn, vì vậy chúng ta có rất nhiều học viên cũ học Pháp Luân Đại Pháp rồi, thậm chí là người cao tuổi, thì da dẻ trở nên rất mịn màng, trắng mịn hồng hào, thân thể rất khỏe mạnh. Trước đây đi bộ leo cầu thang là mệt, bây giờ leo lên mấy tầng cũng không thở dốc, tim không đập nhanh, rất thoải mái, cũng không thấy mệt. Trước đây đi vài bước đã không được rồi; bây giờ đạp xe cũng tựa như có người đẩy. Tôi nói tình huống này, những học viên cũ chúng ta ngồi đây, tôi thử hỏi chư vị có phải vậy không? (Đồng thanh: Phải!) Chúng ta đây là hiện tượng tồn tại phổ biến. Ở đây tôi không phải nói tình huống cá biệt của học viên nào đó là như vậy, [mà] nó là hết sức phổ biến, công pháp tính mệnh song tu chân chính là có thể đạt được điểm này. Thay đổi về bề ngoài hết sức lớn, rất nhiều người cao tuổi nếp nhăn trên mặt trở nên ít đi, thậm chí không còn nữa. Đồng thời thay đổi về sinh lý cũng rất lớn. Do vấn đề thời gian nên điểm này tôi không giảng nữa.

還有,我這個法輪修煉大法還是一個最獨特的功法。在歷史上從來沒有人傳過的,當然我說這話說絕對了,就是在本次人類文明時期從來沒有傳過。在史前,相當長的一個史前時期,曾在人類社會作為一個主要的度人方法度過人,而在本次人類文明時期沒傳過。那麼這個大法和現在所有的這個氣功、那個氣功的修煉方法的理論是截然不同的,現在人類所修煉的東西基本上是走丹道的。甚麼叫走丹道呢?就是說你要結丹,包括那個廟裏的和尚,雖然不講煉功,他也是要結丹的。你看他燒出那個舍利子就是他那個丹炸開了。道士也是一樣,民間傳說的一些個修煉方法也是一樣,都基本上是走丹道的。大家可能知道密宗,它好像是不走丹道的,實質上還是走丹道的,他修明點也是丹。那麼它那個輪子是意念控制轉的,意念不控制它還不轉,而且它那個輪子是虛的,而我們這個法輪他卻是實的。

Còn nữa, Pháp Luân Tu luyện Đại Pháp này của tôi còn là một công pháp độc đáo nhất. Trong lịch sử xưa nay chưa từng có ai truyền; đương nhiên tôi nói câu này tuyệt đối rồi, tức là trong thời kỳ văn minh nhân loại lần này xưa nay chưa từng truyền. Trong tiền sử, tại một thời kỳ tiền sử tương đối lâu dài, đã từng [phổ truyền] độ nhân như một phương pháp độ nhân chủ yếu nơi xã hội nhân loại, còn trong thời kỳ văn minh nhân loại lần này thì chưa từng truyền. Vậy thì Đại Pháp này [so] với tất cả các môn khí công hiện nay, các phương pháp tu luyện khí công kia [thì] về lý luận là khác biệt rõ ràng; những điều nhân loại hiện nay tu luyện về cơ bản là tẩu đan đạo. Thế nào gọi là ‘tẩu đan đạo’? Chính là chư vị phải kết đan, kể cả hòa thượng ở chùa, tuy [họ] không giảng luyện công, họ cũng phải kết đan. Chư vị thấy họ hỏa thiêu ra xá lợi tử kia chính là cái đan của họ đã nổ. Đạo sĩ cũng thế, những phương pháp tu luyện trong truyền thuyết dân gian cũng thế, về cơ bản đều là tẩu đan đạo. Mọi người có thể biết đến Mật tông, họ dường như không tẩu đan đạo, nhưng thực chất vẫn là tẩu đan đạo, họ tu ‘minh điểm’ cũng là đan. Thế còn bánh xe kia của họ là [dùng] ý niệm khống chế quay, ý niệm không khống chế thì nó không quay, hơn nữa bánh xe đó là hư27; còn Pháp Luân này của chúng ta là thực.

我這套功法的這個法輪,當然你自己修煉起來可困難了。我們是經過多少代人才形成的,歷代單傳的,從來不傳外人。我現在在一個特殊的歷史環境下,把他拿出來傳人。有的學員說老師你給我一個法輪吧;還有的學員寫條子,說老師,我沒參加班,我給你點錢,給你點學費,你給我個法輪吧,那意思是我買個輪子。我告訴大家,這法輪極其珍貴,是不能用價值來衡量的。沒有緣份的人你花多少多少億也買不來;有緣份的人一分不要就得了。我們看今天能拿出這個東西來,就看人最後還有一點佛性在才拿出來的,實際上我們傳出的效果還是比較好。他是極其珍貴的,你必須得是一個修煉的人才能得的。一旦這個輪子給你下上之後,他二十四個小時不收停,總是這麼旋轉。他會順時針轉,又可以逆時針轉。順時針轉他自動從宇宙中吸取能量、演化能量,那麼他演化的能量供給你身體所有的部份所需要的東西。同時他在反轉的時候,他可以發放能量,發出去的能量把你身體演煉的廢棄物質帶出去,然後再吸進來新的能量物質。他是有目地有選擇的,他是個靈體。你自己人為的捧氣灌頂,採氣,你根本做不到這一點,你沒有他的力量大,你根本就做不到的。所以他還是有選擇的,他是靈體,人所不能及的。

Pháp Luân trong bộ công pháp này của tôi, đương nhiên chư vị tự tu luyện [ra] thì khó lắm. Chúng tôi phải trải qua hằng bao nhiêu thế hệ người mới hình thành, đơn truyền qua các thế hệ, xưa nay chưa từng truyền cho người ngoài. Hiện nay ở hoàn cảnh lịch sử đặc thù, tôi đưa Nó ra truyền cho con người. Có học viên nói ‘Thưa thầy, thầy ban cho con một Pháp Luân nhé’; còn có học viên viết giấy nói ‘Thưa thầy, con không tham gia lớp học, con đưa thầy ít tiền, đưa thầy chút học phí, thầy cấp cho con một Pháp Luân nhé’, ý tứ là ‘tôi mua bánh xe đó’28. Tôi bảo mọi người này, Pháp Luân này cực kỳ trân quý, không thể dùng giá trị để đo lường được. Người vô duyên phận thì chư vị chi trả bao nhiêu bao nhiêu ức29 [tiền] cũng không mua được; người có duyên phận thì không mất một xu cũng đắc được. Chúng tôi thấy hôm nay có thể đưa thứ này ra, là [vì] thấy con người cuối cùng vẫn còn một chút Phật tính nên mới đưa ra; trên thực tế hiệu quả truyền ra của chúng tôi cũng rất là tốt. Nó cực kỳ trân quý, chư vị ắt phải là một người tu luyện thì mới đắc được. Một khi bánh xe này cài cho chư vị, thì Nó [xoay chuyển] 24 tiếng đồng hồ [mỗi ngày] không ngừng, luôn luôn xoay chuyển như vậy. Nó sẽ xoay thuận chiều kim đồng hồ, cũng có thể xoay ngược chiều kim đồng hồ30. Khi xoay thuận chiều kim đồng hồ, Nó tự động hấp thu năng lượng từ vũ trụ, diễn hóa năng lượng; như vậy năng lượng mà nó diễn hóa ra sẽ cung cấp những gì cần thiết cho tất cả các bộ phận thân thể chư vị31. Đồng thời khi nó xoay ngược, Nó có thể phát phóng năng lượng; năng lượng phát ra đưa những vật chất phế bỏ mà thân thể chư vị diễn luyện mang ra ngoài; sau đó lại hút vào vật chất năng lượng mới. Nó là có mục đích có lựa chọn, Nó là một linh thể. Bản thân chư vị dẫu cố ý ôm khí quán đỉnh, thu khí, chư vị cũng hoàn toàn không làm được điểm này, chư vị không có lực lượng lớn như Nó, chư vị hoàn toàn không làm được đến như thế. Như vậy Nó còn có [tính] lựa chọn, Nó là linh thể, con người không thể sánh được.

那麼這個法輪下上之後,他二十四個小時不收停的,老是這麼轉的,老是在演煉著你。就形成了一種叫作「法煉人」的形式。其它功法你煉功它才長,你為了增加煉功時間,多煉一會兒,你不煉了,功就不長。而我這個法輪大法,你不煉他也長;你煉,你是在加強這個機,加強我給你下的這些個機制和法輪,你在加持他、加強他,你只不過起這樣一個作用。而真正的修煉,是整個這套法,還不只是法輪在煉,外邊給你下的機制在運轉,法輪在轉,身體裏邊的一切機制都在自動的煉。

Thế thì Pháp Luân này sau khi được cài, Nó 24 giờ không [bao giờ] dừng lại, luôn luôn xoay chuyển như thế, luôn luôn diễn luyện chư vị. Sẽ hình thành một hình thức gọi là “Pháp luyện người”. [Ở] công pháp khác [khi] chư vị luyện công nó mới tăng trưởng; để gia tăng thời gian luyện công, chư vị luyện thêm một chút; [khi] chư vị không luyện nữa, thì công cũng không tăng. Nhưng [với] Pháp Luân Đại Pháp của tôi, chư vị không luyện Nó vẫn tăng; chư vị luyện, [thì] chư vị là đang gia cường cho bộ cơ32 này, gia cường cho những cơ chế này và Pháp Luân mà tôi cài cho chư vị; chư vị đang gia trì Nó, gia cường Nó; chư vị chẳng qua chỉ khởi một tác dụng như vậy. Còn tu luyện chân chính, là cả bộ Pháp này; không chỉ là Pháp Luân đang luyện, những cơ chế cài ở bên ngoài chư vị cũng đang vận chuyển, Pháp Luân đang xoay chuyển, hết thảy cơ chế bên trong thân thể cũng đang tự động luyện.

我們講的修,真正的修煉主要是修,而煉它是又一方面的。你只要注重你的心性的修煉,把你自己當作一個真正修煉的人來約束你自己在常人社會中的行為,那麼你的功就在往上長。再加上你每天煉的動作,你就在完整的、整體的煉我這套東西。動作很簡單,只有五套功法,可是宏觀上整體的控制著成千上萬的東西在演煉著。有人問那氣功師,說這個動作是煉甚麼的?那個動作是煉甚麼的?有些氣功師講不出來。為甚麼講不出來?也不好跟你講。因為人體要修煉的東西成千上萬還不止,每一個動作都是在宏觀上控制著許許多多的東西在演煉。你說它煉甚麼的?怎麼跟你說?甚麼都煉。你看動作簡單,不一定複雜就是好,大道至簡至易。小道小法動作很複雜,修煉不在動作本身複雜成度,而是這一門在另外空間裏給你下上的這套東西,它複不複雜,動作本身並不複雜。

Tu mà chúng tôi giảng, tu luyện chân chính chủ yếu là tu; còn luyện thì nó là một phương diện [khác]. Chư vị chỉ cần chú trọng tâm tính của chư vị mà tu luyện, coi bản thân chư vị như một người tu luyện chân chính mà ước thúc hành vi của bản thân trong xã hội người thường, như thế công của chư vị sẽ tăng trưởng lên. Thêm vào đó là động tác chư vị luyện hàng ngày, chư vị chính là đang luyện bộ các thứ này của tôi một cách hoàn chỉnh, chỉnh thể rồi. Động tác rất đơn giản, chỉ có năm bộ công pháp, nhưng tại hồng quan đang khống chế một cách chỉnh thể hàng nghìn hàng vạn thứ đang diễn luyện. Có người hỏi khí công sư kia, rằng động tác này là luyện cái gì? Động tác kia là luyện cái gì? Một số khí công sư không nói ra được. Tại sao không nói ra được? Cũng không dễ mà nói cho chư vị. Vì cơ thể người có hàng nghìn hàng vạn thứ cần tu luyện, mỗi động tác đều là tại hồng quan mà khống chế rất nhiều rất nhiều thứ đang diễn luyện. Chư vị nói xem nó luyện cái gì? Nói cho chư vị thế nào đây? Cái gì cũng luyện cả. Chư vị thấy động tác đơn giản, không nhất định cứ phức tạp là tốt; Đại Đạo chí giản chí dị33. Tiểu đạo tiểu pháp động tác rất phức tạp; tu luyện không ở mức độ phức tạp của bản thân động tác, mà là bộ các thứ cài cho chư vị ở không gian khác trong môn này; nó phức tạp hay không ấy, chứ bản thân động tác không hề phức tạp.

可能有人心裏想:說你講這個我們還不太明白。人家說結了丹這是能量,和尚也能燒出舍利子來,這倒可信,它還是物質上的東西。你講這個法輪在肚子裏轉不太可信,他怎麼能是活的呢?怎麼能轉呢?我再反問你一下,你說這個銀河系、宇宙在轉,銀河系在運轉著,九大行星圍著太陽轉,我們地球還在自轉,誰推的它呀?誰給它加的力呀?我告訴你,它們就是一種旋機形式存在的,我們這個法輪也是這種旋機存在,所以他就是自轉不止。我們有一部份人還沒聽過課,我可以叫你體察一下這個法輪他轉動的感覺。大家伸起一隻手來,把手掌平放,手不要用力,但是手掌儘量伸直。好,我現在給每個人打出一個法輪,在你手掌轉一轉,叫你看一看,轉不轉?(轉!)樓上的轉不轉?(轉!)好了,就是讓大家體驗一下,個別人沒體察出來轉,他體察了手是涼的,還有人體察手是熱的。那是因為你身體帶的那個業力場造成的。體察是涼的往往身體都不太好;還有這個手這個部份有業力存在造成的。但是不管你感覺轉不轉,你也會感覺熱或者涼,當然絕大部份都能感覺出來轉的。

Có thể có người nghĩ trong tâm, nói ‘Ông giảng điều này chúng tôi vẫn không minh bạch lắm. Người ta nói về kết đan đó là năng lượng, hòa thượng cũng có thể hỏa thiêu ra xá lợi tử, cái này còn tin được, nó vẫn là thứ vật chất. Pháp Luân mà Ông giảng xoay chuyển ở trong bụng thì khó tin lắm, Nó làm sao có thể là sống? Làm sao có thể quay?’ Tôi hỏi ngược lại chư vị, chư vị nói xem hệ Ngân Hà này, vũ trụ này đang quay, hệ Ngân Hà đang vận chuyển, chín đại hành tinh đang quay quanh mặt trời, trái đất của chúng ta cũng tự quay, ai đẩy chúng? Ai gia lực cho chúng? Tôi bảo chư vị này, chúng chính là tồn tại một loại hình thức toàn cơ34, Pháp Luân này của chúng ta cũng là tồn tại một dạng toàn cơ, cho nên Nó tự xoay chuyển không ngừng. Chúng ta có một phần [học viên] vẫn chưa từng nghe giảng, tôi có thể để chư vị thể nghiệm một chút cảm giác về sự chuyển động của Pháp Luân này. Mọi người duỗi một tay ra, để lòng bàn tay nằm ngang, tay không được dùng lực, nhưng lòng bàn tay duỗi thẳng hết mức. Được rồi, bây giờ tôi đả xuất cho mỗi người một Pháp Luân, xoay chuyển một chút trong lòng bàn tay chư vị, để chư vị xem xem, có xoay chuyển không? (Có!) [Mọi người] ở trên tầng có xoay chuyển không? (Có!). Được rồi, là để mọi người thể nghiệm một chút; một số người cá biệt không thể nghiệm được sự xoay chuyển, thì họ cảm thấy tay lạnh, có người cảm thấy tay nóng. Đó là do trường nghiệp lực mà thân thể chư vị mang theo tạo thành. Cảm thấy lạnh thì thường là thân thể không tốt lắm; còn có nghiệp lực tồn tại ở bộ phận tay tạo thành. Nhưng bất kể là chư vị cảm nhận được xoay chuyển hay không, chư vị cũng sẽ cảm thấy nóng hoặc lạnh; đương nhiên tuyệt đại bộ phận đều có thể cảm giác được sự xoay chuyển.

我這個法輪大法,因為他是這樣一種功法,所以他比較適合於現代人學煉。當然了,我說法輪大法傳出來,對社會、對人類的道德水準提高是有好處的,事實已經證明了這一點。作為一個常人,作為一個人來說,你要想修煉,你必須注重你的心性去修煉。那麼你注重你的心性修煉,在常人社會中你必然反映出是一個好人,保證是這樣。有人說他的功法也能夠達到長期煉功,老是惚兮恍兮的。我說那可不是煉功,那只不過是祛病健身,練氣中的一個狀態,那可不是煉功。再說,假如說是真的煉功,你試一試看,你惚兮恍兮你能好好工作嗎?你能完成好領導交給的工作嗎?儘管你是個體經營者也好,或者是私人開的公司也好,你不也是為社會盡義務嗎?那我是坐辦公室的,你坐辦公室你也惚兮恍兮的,你怎麼寫材料啊?都完成不好工作,弄不好還出危險哪!說這個工人惚兮恍兮的工作,這手弄不好伸到齒輪裏去了。那高空作業的惚兮恍兮說不定掉下來,那不是生產安全問題嗎?它不可能達到長期煉功的。但是我們這個功確實解決了這樣一個問題,我們得同化宇宙特性,做一個好人,這才是個修煉人的標準,我們有的學員也知道,功長的是很快的。我們這個功法小事上也不講究,說道也不多。因為大道修煉,大法修煉,說道就很少。我們也不講究對著哪個方向煉,或者是哪個時間煉、對著哪個方向煉。因為我們這個法輪大法,煉的比較大,在我們這個歷史時期,在我們這次人類文明出現,還沒有煉過這麼大的東西。我這東西沒有傳之前,你不信你看一看,那些模仿著動物的動作修法,甚至於哪怕是甚麼名人、聖人、道人也好,你是道、神、佛也好,他畢竟還是有侷限性的。

Pháp Luân Đại Pháp này của tôi, vì Nó là một loại công pháp như vậy, nên Nó rất phù hợp với con người hiện đại học luyện. Đương nhiên, tôi nói rằng Pháp Luân Đại Pháp truyền ra, đối với xã hội, đối với việc nâng cao chuẩn mực đạo đức nhân loại là có chỗ tốt, sự thực đã chứng minh điều này. Làm một người thường, làm một cá nhân mà nói, nếu chư vị muốn tu luyện, chư vị ắt phải chú trọng tâm tính của mình mà tu luyện. Như vậy chư vị chú trọng tâm tính của mình mà tu luyện, trong xã hội người thường chư vị tất nhiên sẽ thể hiện ra là người tốt, bảo đảm là như vậy. Có người nói công pháp của họ cũng có thể đạt được trường kỳ luyện công, lúc nào cũng mơ mơ màng màng. Tôi nói rằng đó không phải luyện công, đó chỉ bất quá là chữa bệnh khỏe người, một trạng thái trong luyện khí, đó không phải là luyện công. Lại nói, giả sử là luyện công thật, chư vị cứ thử xem, chư vị mơ mơ màng màng liệu có thể công tác tốt được không? Chư vị có thể hoàn thành tốt công tác mà lãnh đạo giao cho không? Kể cả chư vị là kinh doanh cá thể cũng vậy, hoặc là công ty tư nhân cũng vậy, chư vị chẳng [cần] phải làm tròn nghĩa vụ với xã hội sao? Thế còn tôi là làm văn phòng, chư vị làm văn phòng chư vị cũng mơ mơ màng màng, thì chư vị viết tài liệu thế nào? Đều không hoàn thành tốt công việc, không khéo còn xảy ra nguy hiểm ấy chứ! Chẳng hạn người công nhân kia mơ mơ màng màng mà công tác, tay này không khéo thò vào bánh răng rồi. Tác nghiệp ở trên không trung kia mà mơ mơ màng màng thì có khi bị rớt xuống, đó chẳng phải xảy ra vấn đề an toàn hay sao? Nó không thể đạt được luyện công trường kỳ. Nhưng công này của chúng ta quả thực giải quyết được vấn đề này, chúng ta phải đồng hóa với đặc tính vũ trụ, làm một người tốt, đó mới là tiêu chuẩn của người tu luyện, chúng ta có học viên cũng biết rằng, công tăng rất nhanh. Công pháp này của chúng ta không chú trọng vào việc nhỏ, thuyết Đạo cũng không nhiều. Bởi vì đại đạo tu luyện, đại pháp tu luyện, nên thuyết Đạo rất ít. Chúng ta cũng không chú trọng phải quay về hướng nào mà luyện, hay là vào thời gian nào luyện, quay hướng về phía nào luyện. Vì Pháp Luân Đại Pháp này của chúng ta, luyện được rất to lớn; trong thời kỳ lịch sử này của chúng ta, trong lần văn minh nhân loại này xuất hiện, chưa từng luyện được điều nào to lớn nhường này. Trước khi tôi truyền điều này, chư vị không tin chư vị cứ xem xem [những thứ trước đây], những pháp tu mô phỏng theo động tác của động vật, thậm chí ngay cả danh nhân, thánh nhân, đạo nhân nào cũng vậy, các vị là Đạo-Thần-Phật cũng vậy, rốt cuộc họ vẫn có tính cuộc hạn.

我們法輪大法是按照宇宙的演化原理在煉。因為那個法輪是按照宇宙演化原理形成的,按照宇宙的最高特性真、善、忍去指導我們修煉。我們可以說是按照最高的東西在煉了,煉了這麼大一個法,等於是煉宇宙一樣。我們也不講甚麼方向。大家想一想,這宇宙哪有甚麼方向感呢?宇宙本身在運動著,我們銀河系在運轉著,九大行星圍著太陽在轉,地球還在自轉,哪有甚麼東南西北?都轉迷糊了,根本就不存在這種方向的概念。只是人類站在現有人類的角度上,在我們地球上劃分的。所以我們煉這麼大一個東西,煉宇宙一樣,當然就沒有方向感之說。所以你對著哪個方向煉都是等於對著全方位在煉,你對著哪個方向煉,說白了,也就等於同時對著東南西北煉,所以我們根本不講方向的。因為這是運轉的,是轉的。

Pháp Luân Đại Pháp chúng ta chiểu theo nguyên lý diễn hóa của vũ trụ mà luyện. Vì Pháp Luân là hình thành chiểu theo nguyên lý diễn hóa của vũ trụ, [nên] chiểu theo đặc tính tối cao của vũ trụ Chân-Thiện-Nhẫn để chỉ đạo chúng ta tu luyện. Có thể nói chúng ta đã chiểu theo điều tối cao mà luyện, đã luyện một Pháp lớn như thế này, tương đương với luyện vũ trụ. Chúng ta cũng không giảng phương hướng gì cả. Mọi người nghĩ xem, trong vũ trụ này nào có cảm giác phương hướng gì? Bản thân vũ trụ đang vận động, hệ Ngân Hà chúng ta đang vận chuyển, chín đại hành tinh quay quanh mặt trời, trái đất cũng tự quay, nào có đông nam tây bắc gì chứ? Quay đến chóng mặt rồi, hoàn toàn không tồn tại khái niệm phương hướng ấy. Chỉ là nhân loại đứng trên góc độ hiện có của nhân loại, từ trái đất chúng ta mà phân chia. Cho nên chúng ta luyện một điều to lớn nhường ấy, như là luyện vũ trụ, đương nhiên không có thuyết về cảm giác phương hướng. Do đó chư vị quay về hướng nào mà luyện thì cũng bằng như quay về toàn phương vị mà luyện, chư vị quay về hướng nào mà luyện, nói thẳng ra, cũng bằng như đồng thời quay về đông nam tây bắc mà luyện, thế nên chúng tôi hoàn toàn không giảng phương hướng. Vì đây là vận chuyển, là xoay chuyển.

我們也不講時間。為甚麼不講時間呢?許多功法講子時煉功好,辰時煉功好。當然我們覺的子時那個時候,時辰是比較好一些,可是我們不侷限在這麼小的時間範圍去煉。說那個大的宇宙,你地球這個子時好,你在其它空間中這個子時不一定是好,所以我們不侷限這個。但是子時有個有利條件,就是它比較靜,夜深人靜適合於煉功。還有的說這個辰時煉功好。當然我們也還是那個道理,我們也不講時辰。但是我們也主張早晨起來,大家集體在一起煉,或者晚上集體在一起煉。為甚麼呢?因為大家集體煉功,遇到甚麼問題可以互相切磋,互相的、共同的把它解決了。互相探討,對大家共同提高有好處。所以我們也選擇了大家集體煉功這樣一種形式。當然有人上班,有時間也就是早晚,所以就早晚煉功。其實哪,你每時每刻你不煉,你都被功煉著;而你煉是加強我給你下的那些個機,我們講隨機而行,手、動作只不過是加強那個機。

Chúng tôi cũng không giảng thời gian. Tại sao không giảng thời gian? Rất nhiều công pháp giảng rằng giờ tý luyện công tốt, giờ thìn luyện công tốt. Đương nhiên chúng tôi thấy vào giờ tý, canh giờ35 ấy tốt hơn chút, nhưng chúng tôi không hạn chế vào phạm vi thời gian nhỏ như vậy mà luyện. Chẳng hạn vũ trụ to lớn kia, trái đất chư vị lúc này là giờ tý tốt, chư vị ở trong các không gian khác giờ tý không nhất định là tốt, vậy nên chúng tôi không hạn chế cái này. Tuy nhiên giờ tý có một điều kiện có lợi, đó là nó rất tĩnh, đêm khuya thanh vắng thích hợp với việc luyện công. Còn có người nói giờ thìn luyện công tốt. Đương nhiên chúng tôi cũng vẫn là đạo lý ấy, chúng tôi không quan trọng thời thần. Nhưng chúng tôi cũng chủ trương dậy sớm, mọi người tập thể cùng nhau luyện, hoặc là buối tối tập thể cùng nhau luyện. Tại sao? Bởi vì mọi người luyện công tập thể, gặp phải vấn đề gì có thể giao lưu với nhau, cùng nhau giải quyết nó. Bàn bạc với nhau, đối với việc cùng nhau đề cao của mọi người có chỗ tốt. Cho nên chúng tôi cũng lựa chọn một loại hình thức là mọi người luyện công tập thể. Đương nhiên, có người đi làm, có thời gian thì cũng là sớm muộn, cho nên cũng luyện công sớm muộn. Thực ra, mỗi thời mỗi khắc chư vị không luyện, thì chư vị vẫn được công luyện; mà chư vị luyện là gia cường [bộ] cơ mà tôi cài cho chư vị; chúng tôi giảng tùy cơ nhi hành, tay, động tác chỉ bất quá là để gia cường [bộ] cơ kia.

我們也不講收功。不講收功是因為沒有收功的概念。因為其它功法練完功就把功收回來,把周圍散射的能量場劃拉回來,功也停了。我們沒有這個概念,因為我們二十四個小時都在煉,所以根本就沒有收停的概念,也就不講收功。那麼有人想了,說我在那煉煉功,突然間來電話了,或者突然間來人敲門了,我怎麼辦呢?那你就起來去接待客人,起來接電話沒有問題。為甚麼會這樣呢?因為人煉功周圍是有一個場的存在,可是你的法輪他是有靈性的。你自己的思想中想著去幹甚麼的時候,他知道你現在不煉了,他會馬上瞬間向順時針方向旋轉,一下子把你體外的這個場「唰」的就吸回來了。你人為都做不到的,你捧氣灌頂,你再捧也要丟的,而他是不丟的,因為他有這樣一個東西在制約著。剛才我跟大家簡單的介紹了一下法輪大法這個功法的特點。當然還有很多,還有更好的。我們在講課中才能談到,因為得系統去講。

Chúng tôi cũng không giảng thu công. Không giảng thu công là vì không có khái niệm thu công. Do những công pháp khác luyện công xong là phải thu công về, thu trường năng lượng tản xạ xung quanh về, công cũng dừng. Chúng tôi không có khái niệm này, bởi vì 24 giờ đồng hồ chúng ta đều đang luyện, nên hoàn toàn không có khái niệm thu dừng, cũng không giảng thu công. Thế thì có người nghĩ, chẳng hạn tôi đang luyện công ở kia, đột nhiên có điện thoại, hoặc là đột nhiên có người tới gõ cửa, thì tôi làm thế nào? Thế thì chư vị cứ đứng dậy tiếp khách, đứng lên nghe điện thoại không sao cả. Tại sao lại như thế? Bởi vì xung quanh người luyện công có tồn tại một trường, nhưng Pháp Luân của chư vị Nó là có linh tính. Khi trong tư tưởng của bản thân chư vị nghĩ đi làm gì đó, Nó biết chư vị bây giờ không luyện nữa, Nó ngay lập tức sẽ xoay chuyển thuận chiều kim đồng hồ, lập tức lấy trường ở ngoài thân thể chư vị “xoẹt” một cái là hút trở về. Chư vị cố ý làm cũng không làm được, chư vị ôm khí quán đỉnh, chư vị có ôm nữa thì cũng phải mất, nhưng Nó là không mất, bởi vì Nó có một thứ như vậy để chế ước. Vừa rồi tôi giới thiệu một cách đơn giản cho mọi người về đặc điểm của công pháp Pháp Luân Đại Pháp. Đương nhiên còn có rất nhiều, còn có tốt hơn nữa. Chúng tôi trong khi giảng bài mới có thể bàn đến, bởi vì phải giảng một cách hệ thống.

下面我們再講一個問題,就是不同階層的人如何煉功。大家可能知道過去有這麼一個說法,說窮的一無所有的人,無財的人才能修煉的。不同宗教的人都講他們自己這一門的理。佛教講的再大也是圍繞著釋迦牟尼佛所證悟的、但後人流傳有誤之佛教的理論去講;而道家他也出不了他的太極的理。可是誰都沒有完整的把這個宇宙說清楚,你只有跳出這個框框去說整個宇宙,才能說清楚宇宙的法、宇宙的特性、神、道、佛之根本是甚麼,所以都是講自己那一門。何況這裏邊道家有許多門派,佛家有許多門派,而又都在講自己門派中的理。我們是破開這一切講宇宙的真相,結合著現代科學和人體科學講的。那麼我們講的甚麼道理呢?大家可能聽宗教中講了,耶穌也有一句話,說這個富人要進天國比駱駝鑽針眼還要困難。他講的是富人很難修。但我們講難修,而不是富人修不了。不能看它表面。因為富人很難放棄他的金錢、財富,但是我們看實質不看表面。我講的是,不是說真正讓你把物質的東西都扔了就是真修,而是執著於錢財之心得放下,能夠把它看淡、看輕。

Tiếp theo chúng ta giảng thêm một vấn đề, ấy là người tại các giai tầng khác nhau luyện công thế nào. Mọi người có thể biết trước đây có lối nói rằng, người nghèo mà không có gì, người không có tiền mới có thể tu luyện. Người của các tôn giáo khác nhau chỉ giảng cái Lý trong môn bản thân họ. Phật giáo giảng rộng lớn đến đâu cũng là giảng quanh lý luận Phật giáo dựa trên những điều Thích Ca Mâu Ni đã chứng ngộ và [được] người đời sau lưu truyền có sai sót; còn Đạo gia cũng không xuất ra khỏi cái Lý Thái cực của họ. Nhưng không ai giảng rõ ràng về vũ trụ này một cách hoàn chỉnh cả, chư vị chỉ có nhảy ra khỏi cái khung này mà nói về toàn bộ vũ trụ, thì mới có thể nói rõ được Pháp của vũ trụ, đặc tính của vũ trụ, căn bản của Thần-Đạo-Phật là gì; vì vậy [họ] đều là giảng môn của riêng mình. Huống là ở đây Đạo gia có rất nhiều môn phái, Phật gia có rất nhiều môn phái, mà đều chỉ giảng Lý trong môn phái của mình. [Còn] chúng ta là mở tung hết thảy mà giảng về chân tướng của vũ trụ, kết hợp với khoa học hiện đại và khoa học nhân thể mà giảng. Thế thì chúng tôi giảng là đạo lý gì? Có lẽ mọi người nghe trong tôn giáo giảng rằng, Jesus cũng có một câu nói, rằng người giàu kia muốn tiến vào thiên quốc còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim. Ông giảng là người giàu khó tu lắm. Nhưng chúng tôi giảng khó tu, chứ không phải là người giàu không tu được. Không thể nhìn bề mặt. Bởi vì người giàu rất khó vứt bỏ tiền bạc, của cải của họ; nhưng chúng ta nhìn thực chất chứ không nhìn bề mặt. Điều tôi giảng là, không phải thực sự khiến chư vị vứt hết những thứ vật chất thì mới là chân tu, mà là tâm chấp trước vào tiền tài phải buông bỏ, có thể coi nó thật nhẹ nhàng đạm bạc.

我現在講不同階層的人怎麼修煉呢?我告訴大家,之所以有人,人能在世上活著,就是為一個字:情!你的喜怒哀樂,你喜歡幹甚麼,不喜歡幹甚麼;你喜歡吃甚麼,不喜歡吃甚麼;你喜歡哪個人,不喜歡哪個人;親情、友情、愛情、父母之情,一切的一切,人的一切都來源於這個情。那麼這個情可以產生所有的執著心。影響你這個情的時候,你又能產生妒嫉心,所以人就是為了這個情活著。那麼人具體修煉就得去你這個心,逐漸的磨淡,你磨沒了更好,因為它是層次的體現。就逐漸的把這些東西看淡、看淡,把這些常人所執著的東西看淡。那麼常人,人家看到常人最執著的東西就是名和利,所以就認為追求這兩種東西的人是最難修的。追求名哪,那包括著追求地位、職位、權力;那追求利哪,主要就是金錢和物質,就認為追求這兩種東西的人最難修。其實哪,我們講難修是難修,但是都能修,不是說不能修。非得把你這些金錢都扔了你才能修嗎?我說還不是那麼回事。真正修煉,不是因為你富有和你不富有,那用佛家的理講,富有那是你自己的福份造成的,那是你自己有這個德造成的,你應該有。所以他富有本身並不是罪過。

Bây giờ tôi giảng về người ở các giai tầng khác nhau tu luyện thế nào? Tôi nói mọi người này, sở dĩ có con người, con người có thể sống trên thế giới này, chính là vì một chữ: ‘tình’! Hỷ nộ ai lạc36 của chư vị, chư vị thích làm gì, không thích làm gì; chư vị thích ăn gì, không thích ăn gì; chư vị thích người nào, không thích người nào; tình thân, tình bạn, tình yêu, tình phụ mẫu, hết thảy của hết thảy, hết thảy mọi thứ của con người đều bắt nguồn từ cái ‘tình’ này. Như thế cái tình này có thể sản sinh tất cả các tâm chấp trước. Khi ảnh hưởng đến cái tình ấy của chư vị, chư vị lại có thể sinh ra tâm tật đố, cho nên con người chính là vì cái tình này mà sống. Thế thì con người tu luyện cụ thể thì phải bỏ cái tâm này của chư vị đi, dần dần mài cho phai nhạt đi, chư vị mài hết đi thì càng tốt, bởi vì nó là thể hiện của tầng thứ. Dần dần coi nhẹ, coi nhẹ những thứ này, xem thật nhẹ nhàng những gì người thường chấp trước. Thế còn người thường, người ta thấy điều người thường chấp trước nhất chính là danh và lợi, vì thế cho rằng ai theo đuổi hai thứ này là khó tu nhất. Truy cầu danh ấy, nó bao gồm theo đuổi địa vị, chức vị, quyền lực; còn truy cầu lợi thì, chủ yếu là tiền bạc và vật chất, nên cho rằng người truy cầu hai thứ này là khó tu nhất. Kỳ thực, chúng tôi giảng khó tu là khó tu thôi, chứ đều có thể tu, không phải nói là không thể tu. Cứ phải vứt bỏ hết tiền bạc kia của chư vị thì chư vị mới có thể tu chăng? Tôi nói không phải chuyện như vậy. Tu luyện chân chính, không phải bởi vì chư vị giàu có hay chư vị không giàu có; dùng Lý của Phật gia mà giảng, giàu có là do phúc phận của chư vị tạo thành, đó là bản thân chư vị có cái đức này mà ra, chư vị đáng có được. Vì vậy họ giàu có bản thân nó không phải là tội lỗi.

我們講的是,你在你這個層次中如何做一個好人,把各種物、慾、名、利看淡。你家財萬貫,你沒有把它看重,你看的很淡,你甚至於這個心根本就沒有這個錢,就沒有問題。你家裏的那個錢裝不下了,床都是用錢墊起來的,我說也沒有關係。修就是修的人這顆心,不是從物質上真正去甚麼東西。說你當多大的官,把官本身看淡,你當多大的官都是為人民服務,為眾生謀福,是為了別人,你這不就是個好官嘛。當然這個人類社會是複雜的,你在各個層次中,你能夠擺正這個關係,按照我們這個法的要求,你都能夠做一個好人,一個修煉的人。

Điều chúng tôi giảng là, tại tầng thứ này chư vị chư vị làm một người tốt như thế nào, coi nhẹ các chủng vật-dục-danh-lợi. Chư vị có gia tài bạc vạn, chư vị không coi nặng nó, chư vị coi nó rất nhẹ, thậm chí tâm chư vị hoàn toàn không có cái tiền đó, thì không sao cả. Trong nhà chư vị tiền [nhiều] chứa không hết, cả giường cũng dùng tiền mà lót, thì tôi nói cũng không sao. Tu là tu cái tâm này của con người, chứ không phải thực sự vứt bỏ thứ gì về vật chất. Chẳng hạn chư vị làm quan to đến mấy, mà coi bản thân chức quan rất nhẹ, chư vị làm quan to đến mấy cũng là vì nhân dân phục vụ, vì chúng sinh tạo phúc, là vì người khác, thế thì chư vị chẳng phải là một vị quan tốt sao. Đương nhiên xã hội nhân loại là phức tạp, chư vị tại các tầng thứ, chư vị có thể sắp xếp ngay chính quan hệ này, chiểu theo yêu cầu của Pháp này của chúng tôi, thì chư vị đều có thể làm một người tốt, một người tu luyện.

咱們就說不同階層的人吧,常人有常人的矛盾。這個一般的職員,他有他們之間的利益上的衝突;那麼高職位中的人他也有他那個層次中的人與人之間勾心鬥角的矛盾;那麼更高層次上,他也是有他那個層次存在的矛盾狀態的。就是在你這個層次當中,在你這個環境當中,你如何把這些個人利益上追求的東西,把這些東西看的淡。你如何做一個好人,多做好事,為別人做好事,如何提高,各個階層都可以修煉。我們跳出了所有宗教、所有門派的理去講這個東西。不是從物質上真正叫你去掉甚麼東西,都一無所有才能修煉,不是這樣的,就是你能不能把這個東西看淡。我們修的不就是這顆心嗎?說沒有這顆心不就達到這個目地了嘛。說人類社會真的甚麼都沒有了,都成原始社會了,我說這個可不對勁,是不是?人類就是按照它的發展方向在發展的,實質上是這樣一個問題。

Chúng ta hãy nói về người của những giai tầng khác nhau, người thường có mâu thuẫn của người thường. Một nhân viên bình thường, thì họ có xung đột về lợi ích giữa họ; thế thì người ở chức vị cao thì họ có mâu thuẫn, đấu đá lẫn nhau giữa người với người trong tầng thứ đó; thế thì tầng thứ cao hơn, họ cũng có trạng thái mâu thuẫn tồn tại trong tầng thứ của họ. Chính là trong tầng thứ này của chư vị, trong hoàn cảnh này của chư vị, chư vị coi những thứ truy cầu về lợi ích cá nhân, coi những thứ này nhẹ nhàng thế nào. Chư vị làm người tốt ra sao, làm việc tốt nhiều hơn, làm việc tốt cho người khác, đề cao thế nào, giai tầng nào cũng có thể tu luyện. Chúng ta nhảy ra khỏi Lý của tất cả tôn giáo, tất cả môn phái mà giảng về những điều này. Không phải là bảo chư vị thực sự vứt bỏ cái gì đó về vật chất, cứ phải là không có gì mới có thể tu luyện, không phải vậy đâu, mà là chư vị có thể xem những thứ này thật nhẹ. Chúng ta tu chẳng phải là cái tâm này sao? Không có cái tâm này thì chẳng phải đã đạt được mục đích rồi sao. Nếu xã hội nhân loại thực sự chẳng có gì, đều biến thành xã hội nguyên thủy hết, thì tôi nói thế cũng không đúng, phải không? Nhân loại chính là chiểu theo phương hướng phát triển của nó mà phát triển, thực chất là vấn đề như vậy.

過去有許多人問我,我們怎麼修啊?當然現在社會是很複雜的,有些事情,反正我們不能把它講的太具體了,遵照這個法去做。都跟你講了,就沒有你修的、沒有你悟的了;而具體問題你還得自己去悟,自己去修,你才有可修的,你才能夠提高的。都講出來了,你就沒有提高的了,都在那擺著,你照做就行了。人本來就是在迷中,叫你迷著悟的。說人都看見了,我才去修,我才去悟,我說那個就悟不了。那個覺者為甚麼很難修,很難提高,他老在那個層次上,就是因為他在那個環境中沒有苦吃。哪兒都那麼好,他沒有迷了,他上哪去悟?而常人中有迷,看不到真相,看不到真理。

Trước đây rất nhiều người hỏi tôi, rằng chúng ta là tu thế nào? Đương nhiên xã hội hiện nay rất là phức tạp, có một số việc, dù sao chúng tôi không thể giảng nó quá cụ thể; [hãy] tuân theo Pháp này mà làm. Đều nói hết cả cho chư vị rồi, thì không còn gì để chư vị tu, không còn gì để chư vị ngộ nữa; mà vấn đề cụ thể thì chư vị vẫn phải tự mình ngộ, tự mình tu, thì chư vị mới có [cái để] có thể tu, chư vị mới có thể đề cao. Nếu giảng ra hết cả, thì chư vị sẽ không có cái [để] đề cao; bày hết ra ở đó, chư vị chiểu theo mà làm là được rồi. Con người vốn dĩ ở trong mê, để chư vị ngộ trong mê. Nếu người ta [nói] nhìn thấy hết, thì tôi mới tu, thì tôi mới ngộ; tôi nói rằng thế thì không ngộ được. Chư Giác Giả vì sao rất khó tu, rất khó đề cao, họ mãi ở tầng thứ kia; chính vì họ ở hoàn cảnh đó không có khổ mà chịu. Đâu đâu cũng tốt đẹp nhường ấy, họ không còn mê nữa, hỏi họ đến đâu để ngộ? Nhưng nơi người thường là có mê, không thấy chân tướng, không thấy chân lý.

人們都在現實利益中爭啊、鬥啊,如果裏邊出現了好人,說我不和你一樣見識,我不爭這些東西,名利都看的很淡,這個人就已經是很突出了。你看在常人中看的好像是很平淡的,可是在高層次一看,這個人已經像金子一樣閃閃發光了。過去講高功人選徒弟,不是說徒弟找師父,而是師父找徒弟,也就是這個道理,人家要選這樣的人。常人都迷在常人中,認為常人自己做的事情是好事,其實到了高層次一看全是反的,人都是為了自己而活,自私的。所以這些你執著的東西,也無非是滿足自私的心理,所以要修煉都得給你去掉。說白了,修煉就是去人的執著心,我這裏盡講根本的東西。修煉就是去你各種執著心,實質上修就是修你這顆心。我說本門修煉就是直指人心,而且我們點到實處,說到關鍵的地方。

Người ta đều ở trong lợi ích hiện thực mà tranh, mà đấu; nếu trong đó xuất hiện người tốt, ví như tôi chẳng chấp nhặt với anh, tôi không tranh những thứ này, danh lợi cũng xem rất nhẹ, thì người đó đã rất nổi bật rồi. Chư vị thấy trong người thường thì dường như rất thường thôi, nhưng từ cao tầng mà nhìn thì người này đã như vàng kim lóe sáng lấp lánh rồi. Trước đây giảng rằng người có cao công tuyển chọn đồ đệ; không phải đồ đệ tìm sư phụ, mà là sư phụ tìm đồ đệ, cũng chính là đạo lý này, người ta muốn tuyển chọn những người như thế. Người thường đều mê trong người thường, cho rằng việc mình làm nơi người thường là việc tốt, kỳ thực đến tầng thứ cao rồi nhìn thì toàn là ngược lại, con người đều vì bản thân mình mà sống, [vì] tự tư37. Vì vậy những thứ chư vị chấp trước ấy, cũng chỉ là để thỏa mãn tâm lý tự tư, do đó muốn tu luyện thì phải loại bỏ đi cho chư vị. Nói thẳng ra, tu luyện chính là loại bỏ tâm chấp trước của con người, ở đây tôi cố gắng giảng những điều căn bản. Tu luyện chính là trừ bỏ các chủng tâm chấp trước của chư vị, về thực chất tu chính là tu cái tâm này của chư vị. Tôi nói rằng bổn môn38 tu luyện chính là trực chỉ nhân tâm39, hơn nữa chúng ta điểm vào đúng chỗ thực, nói đến chỗ mấu chốt.

還有一個問題跟大家說,因為畢竟有老學員在這裏,我們又是總結會。有一些人想出來破壞大法,但是很少,極個別、極個別的,也不像其它功派。有的人為了錢,功派與功派之間打呀、鬥呀,功派內部自己也打呀、也鬥啊,簡直根本就不講心性,甚麼烏煙瘴氣的。大家知道我們這裏,法輪大法這是淨土,我敢這樣講。我們這人與人之間是甚麼心態?大家都是你幫我、我幫你的,法輪大法學員碰在一起甚麼樣哪?我們在廣州班上,有的學員沒有錢啦,大家就成百成百的拿出來幫助人家。你在其它功派中,不可能見到的事情,我們這好人好事層出不窮,是極其極其普遍的現象。我說它還不是淨土嗎?因為我們直接修人的心,重視人心性的修煉,必然會有這樣的結果。所以我們在修煉過程中,大家以後也要注重這個心性的修煉。

Còn có một vấn đề nói với mọi người, vì dù sao cũng có học viên cũ ở đây, chúng ta lại là hội [họp] tổng kết. Rằng một vài người muốn xuất hiện phá hoại Đại Pháp, nhưng mà rất ít, cực kỳ cá biệt, cực kỳ cá biệt; cũng không giống công phái khác. [Ở đó] có người vì tiền, giữa các công phái đánh nhau, đấu nhau, nội bộ công phái cũng đánh, cũng đấu, hoàn toàn không giảng tâm tính, ô yên chướng khí40. Mọi người biết chúng ta ở đây, Pháp Luân Đại Pháp đây là miền tịnh thổ41, tôi dám nói như vậy. Giữa người với người nơi chúng ta đây là tâm thái gì? Mọi người đều là anh giúp tôi, tôi giúp anh; học viên Pháp Luân Đại Pháp gặp nhau thì thế nào? Chúng ta tại lớp học Quảng Châu, có học viên không có tiền, mọi người hàng trăm người liền lấy tiền ra giúp đỡ người đó. Một việc mà chư vị không thể gặp ở công phái khác, những người tốt việc tốt trong chúng ta xuất hiện liên tục không ngớt, là hiện tượng cực kỳ cực kỳ phổ biến. Tôi nói rằng đó còn không phải tịnh thổ sao? Vì chúng ta trực tiếp tu tâm con người, chú trọng tâm tính con người mà tu luyện, tất nhiên sẽ có kết quả như vậy. Thế nên chúng ta trong quá trình tu luyện, mọi người từ nay về sau cũng phải chú trọng tâm tính mà tu luyện.

同時要掌握好這個法,我說那就得把這本書、這個法理解透,要學法。你不要光煉動作。你成天就煉動作了,老師講的啥都忘了,我說你就沒法修。用甚麼去指導你呀?所以大家要多看書,把學法看書也像煉功一樣天天去做,天天去看,才能指導你做一個好人,你心性才能修上來,功才能長上去的。你說我光想煉動作,一天你從早上煉到晚上,把你累個好歹那個功還是不長。你別看那法輪是自動的旋轉,你煉是加強那個機,法輪乾轉把用功給你演煉的東西都給你作好了準備往上運,那個宇宙特性制約著你,他不讓你長,有甚麼用?所以你必須得把心性提高上來,你的功才能呼呼的往上長,一定要重視這個問題。

Đồng thời phải nắm vững Pháp này, tôi là nói phải lý giải cho thấu cuốn sách này, bộ Pháp này, phải học Pháp. Chư vị không được chỉ luyện động tác. Chư vị suốt ngày cứ luyện động tác, Thầy giảng cái gì cũng quên hết rồi, thì tôi nói chư vị cũng không cách nào tu. Dùng cái gì để chỉ đạo chư vị đây? Vì vậy mọi người phải đọc sách cho nhiều, coi việc học Pháp đọc sách cũng giống như việc luyện công hàng ngày phải làm, hàng ngày phải đọc, thì mới có thể chỉ đạo chư vị làm người tốt, tâm tính chư vị mới có thể tu lên, công mới có thể tăng lên được. Chư vị nói tôi chỉ muốn luyện động tác, cả ngày chư vị luyện từ sáng đến tối, khiến chư vị mệt đến mấy thì công kia cũng không tăng. Chư vị chớ thấy Pháp Luân kia tự động xoay chuyển, chư vị luyện là gia cường bộ cơ kia, Pháp Luân càn chuyển dùng công diễn luyện các thứ cho chư vị, đã làm những chuẩn bị cho chư vị vận lên trên, [mà] đặc tính vũ trụ kia lại chế ước chư vị, Nó không cho chư vị tăng, thì có tác dụng gì? Thế nên chư vị ắt phải đề cao tâm tính lên, công của chư vị mới có thể vù vù tăng lên, nhất định phải chú trọng vấn đề này.

還有的學員提到這樣一個問題,就是我們學員將來如何傳功的問題。我想這個問題我也可以跟大家講一講。我講這個之前,首先跟大家說明一個問題,我們學員中沒參加過學習班自己學、自己煉的,你只要按照煉功人的標準去煉,不用我親自給你下法輪、法身,你甚麼都會得到。因為有一個原因,如果是我的學員教你的,那麼我所有的學員都有我的法身保護。大家知道這也不是甚麼迷信,他是我在修煉中由功構成的和我一樣形像的生命體。他也帶著同樣的法,同樣大的力量,這就是法身。我有無數的法身可以保護學員,所以每個學員真正修煉都會得到保護。那麼這個學員,你想學,有學員教你的時候,那麼這個法身就自然會給你調整身體,自然給你下法輪下機制,該給你的就給你。但必須得是真正修煉的,都能得。那麼給你下上這些超常的東西之後要沒有人保護你,你也是危險的。怎麼辦呢?那麼我還有法身也要保護你,這一點是保證的。那麼你們以後怎麼傳功哪?我也跟大家說的很明白。我們全國各地的輔導站和學員人人都可以去傳功,但是不准收錢,人人都不准收費,連輔導站都不准收費的。義務傳功,真正修煉是積功德,而不求名利的,就是這樣傳。如果你真想這樣做,你說我就拿法輪大法來掙錢,那麼好,你甚麼都沒有了,我的法身會把甚麼東西都給你收回來,不允許你用這個東西破壞這個法的。我們這個問題說的很明確。所以你也不要擔心,說我傳了功,人家能不能有法輪和機制哪?一樣有。你一傳我法身就知道。

Còn có học viên hỏi một vấn đề thế này, chính là vấn đề học viên chúng ta sau này truyền công như thế nào. Tôi nghĩ rằng vấn đề này tôi cũng có thể giảng cho mọi người một chút. Trước khi giảng điều này, đầu tiên tôi nói rõ với mọi người một vấn đề, rằng những người trong học viên chúng ta chưa từng tham gia lớp học mà tự học, tự luyện, [thì] chư vị chỉ cần chiểu theo tiêu chuẩn của người luyện công mà luyện, không cần tôi đích thân cài Pháp Luân, Pháp thân, [thì] cái gì chư vị cũng sẽ đắc được. Vì có một nguyên nhân, nếu là học viên của tôi dạy chư vị, mà tất cả các học viên của tôi đều có Pháp thân của tôi bảo hộ. Mọi người biết rằng đây cũng không phải là mê tín gì, Họ là thể sinh mệnh do công của tôi cấu thành trong tu luyện và có hình tượng giống hệt tôi. Họ cũng mang theo Pháp giống như thế, lực lượng lớn như thế, đây chính là Pháp thân. Tôi có vô số Pháp thân có thể bảo vệ học viên, vì vậy mỗi học viên tu luyện chân chính đều sẽ được bảo hộ. Như vậy với học viên này, chư vị muốn học, khi có học viên dạy chư vị, thế thì Pháp thân kia tự nhiên sẽ điều chỉnh thân thể cho chư vị, tự nhiên sẽ cài Pháp Luân cài bộ cơ cho chư vị; những thứ cần cấp thì sẽ cấp cho chư vị. Nhưng phải là tu luyện chân chính, đều có thể đắc được. Sau khi cài cho chư vị những thứ siêu thường ấy mà không ai bảo hộ chư vị, [thì] chư vị cũng sẽ bị nguy hiểm. Làm thế nào đây? Thế thì tôi còn có Pháp thân cũng sẽ bảo hộ chư vị, điểm này là bảo đảm. Vậy thì chư vị về sau truyền công thế nào? Tôi cũng nói rất minh bạch với mọi người. Các trạm phụ đạo và các học viên khắp nơi trên cả nước ai ai cũng có thể truyền công, nhưng không được phép thu tiền, không ai được thu phí, ngay cả trạm phụ đạo cũng không được phép thu phí. Tự nguyện truyền công, chân chính tu luyện là tích công đức, chứ không cầu danh lợi, chính là truyền như thế. Nếu chư vị thực sự muốn làm thế, chẳng hạn nói ta đem Pháp Luân Đại Pháp ra để kiếm tiền, vậy được thôi, chư vị sẽ không có được gì hết, Pháp thân của tôi sẽ thu hồi lại những gì đã cấp cho chư vị, không cho phép chư vị dùng những thứ này để phá hoại Pháp này. Vấn đề này chúng tôi nói rất minh xác. Vì vậy chư vị cũng không cần lo lắng, chẳng hạn nói tôi truyền công thì người ta có thể có Pháp Luân và cơ chế không? [Sẽ] có như nhau. Chư vị hễ truyền thì Pháp thân của tôi liền biết.

那麼沒有人教他,看書能不能學?能不能得?照樣能得。咱們比如說,釋迦牟尼佛也好,老子也好,或者是其他覺者也好,不在世多少年了,可是那一門的人還是在修,古代也確實修出一些人。為甚麼呢?因為法身是在的,我們很多學員可能看到了。我那個照片上,就是那些書中我的照片,好像眼睛會動,或者有人看到身體動,或者有其它的感覺,有人說老師這上有法身。還不只是那個照片上有,因為我們這裏有新學員,不便說的太高。我告訴大家,只要你去學,你拿著書,拿著錄像帶,拿錄音帶去看去聽都是同樣能得。就怕你不修,說我光煉動作,我就想得這些超常的東西,那是絕對不可能的。你們真正去修煉才能得到這些東西。剛才我講了這樣一個問題,是給我們許多老學員講的,新學員聽一聽也是有好處的。

Vậy nếu không ai dạy họ, thì đọc sách có thể học không? Có thể đắc không? [Đều] có thể đắc như nhau. Chúng ta lấy ví dụ, Phật Thích Ca Mâu Ni cũng vậy, Lão Tử cũng vậy, hoặc chư Giác Giả khác cũng vậy, [họ] đã không còn tại thế bao nhiêu năm rồi, nhưng người của môn ấy vẫn đang tu, cổ đại cũng xác thực tu xuất một số người. Tại sao vậy? Bởi vì có Pháp thân ở đó, rất nhiều học viên chúng ta có thể nhìn thấy rồi. Trên tấm ảnh kia của tôi, ngay cả những tấm ảnh của tôi ở trong sách, dường như mắt biết động, hoặc có người nhìn thấy thân thể động, hoặc có cảm giác khác, có người nói Thầy ơi ở trên đây có Pháp thân. Cũng không chỉ ở trên tấm ảnh kia mới có, bởi vì chúng ta ở đây có học viên mới, không tiện nói quá cao. Tôi nói với mọi người rằng, chỉ cần chư vị học, chư vị cầm cuốn sách, cầm băng hình, cầm băng tiếng mà xem mà nghe thì đều có thể đắc được như nhau. Chỉ e chư vị không tu, rằng ta chỉ luyện động tác, ta vẫn muốn đắc được những thứ siêu thường này; điều đó tuyệt đối không thể nào. Chư vị chân chính tu luyện mới có thể đắc được những thứ này. Vừa rồi tôi giảng vấn đề này, là giảng cho rất nhiều các học viên cũ chúng ta, học viên mới nghe một chút thì cũng có chỗ tốt.

還有一個問題,我講一講治病。有人講,有許多人思想很頑固,很固執。甚至有一些個西醫的大夫也抱有這樣的想法,他說你用功能治病還要我們醫院幹啥?也就是言外之意不承認功能治病,但是他又沒有道理,這句話講的很不講理。那麼功能不能治病?

Còn có một vấn đề, tôi giảng một chút về ‘trị bệnh’. Có người nói, có rất nhiều người tư tưởng rất ngoan cố, rất cố chấp. Thậm chí một số bác sỹ Tây Y cũng có mang cách nghĩ thế này, họ nói ông dùng công năng trị bệnh thì còn cần bệnh viện của chúng tôi làm gì? Ý ở ngoài lời tức là không thừa nhận trị bệnh bằng công năng; nhưng họ không có đạo lý, câu nói này giảng rất không nói lý. Vậy công có thể trị bệnh không?

我們發現淺層次修煉的人,他治不了根本,但是他能治到表面。稍微高一點的,他可以把你這個病給推移,往後推移,現在感覺好了,它過多少年以後會再犯,或者轉化成其它的難,或者把它推移到其他親朋好友身上去,他可以做成這種事。真正要治好這個病,那必須得是有這樣能力的人,也就是說他可以給人消業,可是這不是一般人能做的來的。必須得是有這樣能力的人,還得針對那些個真正修煉的人才能這樣做的,而給常人隨隨便便做是絕對不允許的。因為這是等於這個人做了壞事之後可以不還。

Chúng tôi phát hiện rằng người tu luyện ở tầng thứ nông cạn, thì họ không trị được gốc rễ, nhưng họ có thể trị đến mức bề mặt. Hơi cao hơn một chút, họ có thể chuyển dịch cái bệnh này của chư vị, chuyển dịch về sau; bây giờ cảm thấy khỏe, qua bao nhiêu năm sẽ tái phát; hoặc chuyển hóa thành nạn khác, hoặc chuyển nó sang thân của bạn bè thân quyến khác; họ có thể làm được chuyện này. Muốn thực sự trị khỏi bệnh ấy, thì ắt phải là người có năng lực thế này, tức là người đó có thể tiêu nghiệp cho người ta, nhưng đây không phải là việc người bình thường có thể làm được. Phải là người có năng lực như vậy, còn phải nhắm vào những người chân chính tu luyện mới có thể làm như thế này được, chứ tùy tùy tiện tiện làm cho người thường là tuyệt đối không được phép. Bởi vì như thế cũng bằng như người đó làm việc xấu mà có thể không hoàn trả.

那麼這裏邊就有個理了,也就是說功能夠治病。在這麼多年中,有多少人經過自身的鍛練,或者是修煉人把病給治好了,有目共睹,誰也抹殺不了這個事實,也就是說它能夠治病。高層次上修煉的東西,把它拿出來在低層次上給人祛病,當然就能顯示出來奇效。病人有的開始重德了,有的人在常人社會中是個很好的人,煉功後他就能夠好病。可是修煉它是一種超常的東西,那麼它有超常的理跟著,所以你把這個東西拿來大面積的干擾常人社會,那是絕對不允許的。氣功要搞起甚麼醫院來,搞起門診來,搞起康復中心來,它的治療效果一落千丈,保證是這樣的。

Vậy ở đây có một Lý, chính là công có thể trị bệnh. Trong bấy nhiêu năm, hằng bao nhiêu người trải qua tự mình rèn luyện, hoặc [được] người tu luyện trị khỏi bệnh; quá hiển nhiên rồi, không ai phủ nhận nổi sự thực này, tức là nó có thể trị bệnh. Những thứ tu luyện ở tầng thứ cao, lấy chúng ra chữa bệnh cho người tại tầng thứ thấp, thì đương nhiên có thể hiển thị ra hiệu quả kỳ diệu. Người bệnh có [người] bắt đầu trọng đức, có người là người rất tốt nơi xã hội người thường, sau khi luyện công họ có thể khỏi bệnh. Nhưng tu luyện là điều siêu thường, vậy nó có Lý siêu thường đi kèm, cho nên chư vị [nếu] đem thứ đó ra can nhiễu xã hội người thường trên diện rộng, thì tuyệt đối không được phép. Nếu khí công làm ra bệnh viện gì đó, làm ra phòng khám, làm ra trung tâm phục hồi sức khỏe, thế thì hiệu quả trị liệu của nó sẽ sụt xuống ngay, bảo đảm là như vậy.

大家知道,真正有功夫的人看病就一次。消的業太大是不行的。病基本上一次都能好。功打出來,也不講甚麼手法,哪有甚麼手法?功能打出來,通過任何一個身體部位都可以打出來,功打上去了,病就好了。本來不講甚麼手法,可是假氣功師為了騙人搞出甚麼治療手法,甚麼排呀,泄呀,甚麼補啊,甚麼一把抓呀,甚麼氣針啊、電針啊,甚麼光照啊,甚麼亂七八糟這個那個手法可多了。本來修煉人的功怎麼打出去都行的,還講甚麼手法呀,根本就不是那麼回事,那都是有些人為了掙錢編出來的。真正修煉,實質上就是這麼回事。

Mọi người biết đó, người thực sự có công phu mà coi bệnh thì chỉ một lần [là khỏi]. Nghiệp tiêu quá nhiều thì không được. Về cơ bản bệnh một lần cũng có thể khỏi. Công đánh ra, cũng không giảng thủ pháp gì cả; nào có thủ pháp gì đây? Công năng đánh ra, thông qua bất kể vị trí nào của thân thể cũng có thể đánh ra, công đánh đến nơi thì bệnh liền khỏi. Vốn dĩ không giảng thủ pháp gì; nhưng khí công sư giả vì để lừa người liền làm ra nào là thủ pháp trị liệu, nào là bài, nào là tiết, nào là bổ, nào là chộp bắt, nào là khí châm, điện châm, nào là chiếu quang, những thủ pháp loạn bát nháo gì đó thật là nhiều. Nguyên lai công của người tu luyện đánh ra thế nào cũng đều được, còn giảng thủ pháp gì chứ, hoàn toàn không phải chuyện như thế, đó đều là do một số người vì để kiếm tiền mà bịa đặt ra. Tu luyện chân chính, về thực chất chỉ là chuyện như vậy.

可是常人中的病不能隨隨便便的給人動。一旦這個氣功搞起醫院來,治療效果就一落千丈,就不行了。因為不能用超常的東西隨便大面積的干擾常人社會,常人就在常人這個層次面中,是由最低層法管的。那麼用高層次中的法來干涉常人中的理、常人這一層的法,你想那還了得嗎?等於是破壞宇宙的理,破壞常人空間的理。所以你要真正搞起醫院來,你的治療效果,就必須得和常人醫院的治療效果是一樣的。所以你看吧,凡是搞起醫院、治療康復中心的,搞起氣功治病這樣的,它治療時也來個甚麼幾個療程,幾個療程的治。聽起來很可笑,氣功還要治幾個療程,所以它治療效果就不好,從某方面還不如人家醫院治的。就出現這個問題,因為它是超常的。

Nhưng bệnh trong người thường không thể tùy tùy tiện tiện động đến giúp con người. Một khi khí công làm ra bệnh viện, thì hiệu quả trị liệu sẽ sụt xuống ngay, sẽ không được nữa. Vì không thể dùng những thứ siêu thường tùy tiện can nhiễu xã hội người thường trên diện rộng, người thường chính là trong tầng thứ người thường này, là do Pháp ở tầng thấp nhất quản. Còn dùng Pháp của tầng thứ cao để can thiệp vào Lý ở người thường, Pháp ở tầng người thường này, chư vị nghĩ xem thế sao được? [Thế là] bằng như là phá hoại Lý của vũ trụ, phá hoại Lý trong không gian người thường. Vì vậy nếu chư vị thật sự làm ra bệnh viện, thì hiệu quả trị liệu của chư vị sẽ ắt phải giống như hiệu quả trị liệu của bệnh viện người thường. Cho nên chư vị thấy đó, phàm là làm ra bệnh viện, trung tâm trị liệu phục hồi sức khỏe, làm ra trị bệnh bằng khí công kiểu này, khi nó chữa thì cũng sẽ sinh ra mấy cái liệu trình, mấy liệu trình để trị. Nghe thì rất buồn cười, khí công mà còn cần mấy cái liệu trình, thế nên hiệu quả trị bệnh của nó sẽ không tốt, từ phương diện nào đó còn không bằng bệnh viện của người ta. Sẽ xuất hiện vấn đề này, vì nó là siêu thường.

人在修煉過程中出了慈悲心,看眾生很苦,自身又已經出三界了,功高了幫人家動一動,有針對性的這是允許的。說你隨便的去幹,這就是不允許的。當這個人修煉到很高層次的時候,他能夠一下子使很多人很多人好病。可是修煉到這個層次的人,他發現人的那個病不能夠隨便給動的,他看到了這個理。病業都是有因緣關係的,人都是在還業。你隨便給去掉了等於是可以做壞事不還業,它有這樣個理跟著。那麼有的人講了,氣功治病,從某種意義上講,它還是給你解除了現時的痛苦。其實醫院治病何止不是這樣哪?它只不過是給你推移,那個業它拿不掉的。

Người ta trong quá trình tu luyện xuất tâm từ bi rồi, thấy chúng sinh rất khổ, bản thân lại đã xuất khỏi tam giới, công cao rồi liền giúp người ta tác động một chút, có tính nhắm thẳng [có lựa chọn] thế thì được phép. Nếu chư vị tùy tiện mà làm, thế thì không được phép. Khi người này tu luyện đến tầng thứ rất cao, anh ta có thể lập tức làm cho rất nhiều người rất nhiều người khỏi bệnh. Nhưng người tu luyện đến tầng thứ này, họ phát hiện rằng bệnh kia của con người không thể tùy tiện động đến, họ đã thấy được cái Lý này. Nghiệp bệnh đều là có quan hệ nhân duyên, con người đều là đang hoàn nghiệp. Chư vị tùy tiện giúp bỏ đi thì bằng như [người kia] có thể làm việc xấu mà không phải hoàn [trả] nghiệp, nó có cái Lý này đi kèm. Thế thì có người nói, khí công trị bệnh, về ý nghĩa nào đó mà giảng, nó vẫn là giúp chư vị giải trừ thống khổ hiện thời. Thực ra trị bệnh ở bệnh viện chẳng phải cũng như thế sao? Nó chẳng qua chỉ là chuyển dịch cho chư vị, chứ nghiệp kia thì nó không lấy đi được.

我們所說那個病的實質是在另外的空間裏的問題反映到這個空間來,如身體哪裏長東西了、發炎了等等產生了病毒和細菌。小一點的業,密集度很大的,反映到這層空間就是病毒;大一點的業力,那就是細菌,我們看就是這東西,在另外空間裏存在,人怎能根治呢?因為這層空間你還突不破哪。業就是黑乎乎一團一團的那個業力。所以我們在修煉界不講病,不談病,都是業力,就是這個問題。我剛才講了,實質上那個病不能隨便動的。你說出自於慈悲心,特殊的環境下,幫人動一動這是可以的。為了個人的名利,為了錢,為了利益去做,這不行,它有這樣個理跟著的。

Cái bệnh mà chúng ta vẫn nói thực chất là vấn đề ở không gian khác phản ánh đến không gian này, chẳng hạn thân thể mọc gì đó, phát viêm, v.v. sinh ra virus và vi khuẩn. Nghiệp nhỏ một chút, mà mật độ rất lớn, thì phản ánh đến tầng không gian này chính là virus; nghiệp lớn một chút, đó chính là vi khuẩn, chúng tôi nhìn thì chính là những thứ này, tồn tại ở không gian khác, con người làm sao có thể trị tận gốc? Vì ngay không gian này chư vị còn không đột phá được. Nghiệp chính là từng cục từng cục nghiệp lực đen đen. Thế nên trong giới tu luyện chúng tôi không giảng bệnh, không nói về bệnh, đều là nghiệp lực, chính là vấn đề này. Tôi vừa mới giảng, trên thực chất bệnh kia không thể tùy tiện động đến. Chẳng hạn chư vị xuất từ tâm từ bi, trong hoàn cảnh đặc thù, giúp người ta động một chút thì có thể. [Nếu] vì danh lợi cá nhân, vì tiền, vì lợi ích mà làm thì không được, nó có Lý như vậy đi kèm.

那麼有人講了,那治病不是為普度眾生嗎?那不是做好事嗎?末法時期那個經書都被曲解了。你翻翻那個《大藏經》裏邊有沒有說給常人治病是普度眾生之說?根本就沒有。普度眾生是指在常人這個苦的環境中,把你度化到高層次上去,讓你永遠不在這裏邊受苦了,是這個意思,這叫真正的普度眾生,從根本上解決人的問題。而說給常人治病是普度眾生,那是現在那個假氣功師的說法,為了掙錢編出來的,佛度人之說根本不是這個目地。大家想一想給人治病是普度眾生,你說那個佛本事大不大?那個高層次的大佛,腳都比你地球大,一揮手全人類的病都沒有了。他為甚麼不做呢?這多好,普度眾生嘛。人就是這樣的,你欠了業你就得還的,不能破壞這個理的。人自己造的業就得還。你想修煉你就得一邊修心性一邊還業往回返。咱舉個例子,比如說這個人想要出國了,到一個比較富的國家享福了。那麼你在這個國家欠的債你都得還,你撲了撲了走了,那哪行呢?都得還完你才能走。也就是說這個意思,你要修煉你就要吃苦,它有這樣一個理。當然修大法的可以消去一部份,不給你消一部份,你就無法修了。人是業滾業滾到這一步上來的,那障礙太大了,所以必須得給你消一部份才能修。我剛才講治病順便給大家說一下其中的道理。

Vậy có người nói, trị bệnh chẳng phải để phổ độ chúng sinh sao? Đó chẳng phải là làm việc tốt sao? Thời kỳ mạt Pháp những kinh sách kia đều bị giải cong hết. Chư vị thử giở «Đại tạng kinh» [xem] trong đó có thuyết rằng trị bệnh cho người thường là phổ độ chúng sinh không? Hoàn toàn không có. Phổ độ chúng sinh là nói từ hoàn cảnh khổ này của người thường, mà độ hóa chư vị lên tầng thứ cao, để chư vị vĩnh viễn không phải chịu khổ nơi đây nữa, là ý tứ ấy, đó gọi là phổ độ chúng sinh chân chính, giải quyết vấn đề của người ta từ căn bản. Còn nói rằng trị bệnh cho người thường là phổ độ chúng sinh, đó là cách nói của những khí công sư giả hiện nay, vì để kiếm tiền mà bịa ra; thuyết ‘Phật độ nhân’ hoàn toàn không phải vì mục đích này. Mọi người nghĩ xem [nếu] trị bệnh cho con người là phổ độ chúng sinh, chư vị nói xem chư Phật kia có bản sự lớn hay không? Vị đại Phật tầng thứ cao kia, chân còn lớn hơn trái đất của chư vị, hễ huơ tay một cái bệnh của toàn nhân loại đều không còn. Tại sao Ông không làm? Thế tốt quá, phổ độ chúng sinh mà. Con người chính là như vậy, chư vị nợ nghiệp thì chư vị phải trả, không thể phá hoại cái Lý này. Nghiệp con người chính mình tạo ra thì [họ] phải hoàn trả. Chư vị muốn tu luyện thì chư vị phải vừa tu tâm tính vừa phải hoàn nghiệp quay trở về. Chúng ta lấy một ví dụ, ví như người nọ muốn xuất ngoại, để đến một quốc gia giàu có hưởng phúc. Như vậy nợ mà chư vị thiếu ở nước này thì chư vị phải trả; [chứ] chư vị phủi phủi cái rồi đi, thế sao được? Phải trả hết chư vị mới có thể đi. Cũng là nói ý tứ đó, chư vị muốn tu luyện thì chư vị phải chịu khổ, nó có cái Lý như vậy. Đương nhiên tu Đại Pháp có thể tiêu đi một phần; [nếu] không tiêu giúp chư vị một phần, thì chư vị không cách nào tu. Con người đã đến bước nghiệp cuộn lấy nghiệp, chướng ngại kia quá lớn rồi, cho nên ắt phải tiêu giúp chư vị một phần thì [chư vị] mới có thể tu. Tôi vừa giảng về trị bệnh thì nhân tiện nói cho mọi người một chút về đạo lý trong đó.

那麼為甚麼有些氣功師講,學我的功三天能治病、五天能治病,十天你就能治病?當個氣功師,參加學習班下來都是氣功大夫。那又為甚麼大多數他達不到呢?為甚麼有少數人卻能夠給人家治好了一些病呢?是甚麼原因呢?達不到是因為它破壞常人的理是不允許的。那麼為甚麼個別的人伸手治病給人家真治好了幾個哪?自己高興的不行,更加信服那個所謂的氣功師?我告訴你,那是個別人上當受騙。那個這樣幹的所謂氣功師往往都是附體的,因為附體的它也有一些功,它沒有功它還治不了病,它甚至還有功能。它給你一點信息,給那麼一點能量,可是能量它是消耗的。你治一個病,它消耗一部份;再治一點又消耗下去了,你再治幾個沒了,從此以後你要給人治病的執著心卻強烈的很。消耗沒了,你再治它就不好了。

Vậy tại sao có những khí công sư giảng rằng, học công của tôi ba ngày có thể trị bệnh, năm ngày có thể trị bệnh, mười ngày chư vị có thể trị bệnh? Trở thành một khí công sư, tham gia lớp học xong đều là bác sỹ khí công. Thế vì sao đại đa số họ không đạt được? Vì sao một số ít người lại có thể chữa khỏi một số bệnh cho người ta? Là vì nguyên nhân gì? Không đạt được là vì nó phá hoại Lý của người thường là không được phép. Tại sao một số người cá biệt vươn tay ra trị bệnh cho người ta thì quả thật chữa khỏi cho vài người? Bản thân cao hứng vô cùng, càng tín phục cái vị gọi là khí công sư kia? Tôi bảo chư vị này, đó là người cá biệt bị lừa gạt. Những kẻ gọi là khí công sư làm như thế thông thường đều là phụ thể, bởi vì phụ thể nó cũng có một ít công, nó không có công thì nó cũng không trị được bệnh, nó thậm chí còn có công năng. Nó cho chư vị một chút tín tức, cấp một chút năng lượng, nhưng năng lượng đó là tiêu hao. Chư vị trị một bệnh, nó tiêu hao một phần; lại trị một chút thì tiêu hao nữa, chư vị lại trị mấy cái thì hết rồi, từ đó về sau tâm chấp trước muốn trị bệnh cho người khác của chư vị lại rất mạnh mẽ. Tiêu hao hết rồi, chư vị chữa nữa nó cũng không khỏi.

那麼不好了,會出現一個問題,甚麼問題呀?你再治病就是用自己的根基,跟別人交換病。甚麼意思呢?就是這個宇宙中有個理叫作「不失者不得」,得你就得失。你別看你得了不好的東西,因為你治不好人家的病,你一味想要別人病好,那怎麼辦呢?這個病你得去吧,讓病人好,因為你就想讓他的病好嘛。有的人寧可自己得病也要治好他,不是因為發自慈悲心,非得讓他好,他怕他丟名。你看看這氣功師把人害到甚麼成度?這個名利心起的多重,這個名利心把人害的多厲害,他怕他丟名他才這樣想的,非得讓他好這個病,甚至於自己得都行。好,你得那麼就你得。得交換不能白得,人家那個你別看是病,消下去了就變成德,物質不滅的,它可以轉化的。噢,你給拿去了,好,那麼你就給人家德交換吧。在那邊交換的唯一的東西就是德,把德給人家,自己要人家的病,他幹了一件最傻的事,這個德多珍貴啊!

Vậy không được nữa, thì sẽ xuất hiện một vấn đề, là vấn đề gì? Chư vị trị bệnh tiếp nữa thì chính là dùng căn cơ của mình, trao đổi lấy bệnh của người khác. Có nghĩa là gì? Chính là vũ trụ này có một Lý gọi là “bất thất giả bất đắc”, được thì chư vị phải mất. Chư vị chớ thấy rằng mình nhận thứ không tốt, bởi vì chư vị không trị được bệnh của người ta, [nhưng] chư vị cứ một mực muốn người ta khỏi bệnh, vậy phải làm thế nào? [Vậy] bệnh này chư vị phải nhận, để bệnh nhân khỏi, vì chư vị cứ muốn bệnh của người ta khỏi mà. Có người thà rằng tự mình nhận bệnh cũng phải chữa khỏi cho người ta; không phải vì xuất phát từ tâm từ bi; cứ phải khiến người ta khỏi, [vì] họ sợ mất cái danh. Chư vị xem khí công sư kia đã hại người ta đến nhường nào? Cái tâm danh lợi này khởi lên mạnh quá, tâm danh lợi này hại người ta ghê gớm quá, họ sợ họ mất cái danh nên mới nghĩ như thế, cứ phải khiến người kia khỏi bệnh, thậm chí chính mình mắc [bệnh] cũng được. Được thôi, chư vị mắc thì chư vị mắc. Sẽ phải hoán đổi chứ không thể nhận không, chư vị chớ thấy người ta là [có] bệnh, tiêu đi rồi thì sẽ biến thành đức, vật chất bất diệt mà, nó có thể chuyển hóa. Ồ, chư vị lấy đi rồi, được, thế thì chư vị đổi đức cho người ta nhé. Thứ hoán đổi duy nhất ở đây chính là đức, cấp đức cho người ta, tự mình đòi lấy bệnh của người ta; họ đã làm một việc ngu ngốc nhất, đức này trân quý biết bao!

過去宗教中也講,老人也講,今生苦點不要緊,多做點好事積德,下輩子就有福了。那言外之意就是這個德可以給你帶來財,帶來官。其實哪,我們也發現了它是一種交換形式。你想得那個財的時候,你沒有那個德去交換你就得不來。有人做生意,一做就很大;有人乾做沒有,他沒有德,德很少,交換不來;有的人,我跟你說,那個德要少了,你要飯都要不來,你得給人家德,人家才給你飯的,在那邊有個交換形式的。所以你沒有德啥都沒有,全是黑色的業力,那麼這個人就是十惡不赦。面臨著徹底毀滅,元神都要銷毀的,那叫形神全滅,很可怕的事情。銷毀時層層往下銷毀著生命,承受所有罪惡的同時生命在消亡。

Trước đây trong tôn giáo cũng giảng, người già cũng giảng, rằng đời này khổ một chút cũng đừng lo, làm thêm chút việc tốt tích đức, đời sau sẽ có phúc. Ngụ ý là đức này có thể mang đến tiền tài, mang đến chức quan cho chư vị. Thực ra, chúng tôi cũng phát hiện ra nó là một loại hình thức hoán đổi. Nếu chư vị muốn đắc được tiền tài kia, mà chư vị không có đức để hoán đổi thì chư vị không đắc được. Có người làm kinh doanh, làm một cái là rất lớn; có người làm mãi mà không có, họ không có đức, đức rất ít, thì không đổi được; tôi nói với chư vị rằng có người nếu đức ít, thì chư vị xin ăn cũng không được, chư vị phải cấp đức cho người ta, người ta mới cho chư vị cơm, ở bên kia có hình thức hoán đổi. Cho nên chư vị không có đức thì chẳng có gì; [nếu] toàn là nghiệp lực màu đen, thế thì người này chính là thập ác bất xá42. Đối diện với sự hủy diệt triệt để, nguyên thần cũng phải tiêu hủy, đó gọi là ‘hình thần toàn diệt’, điều rất đáng sợ. Khi tiêu hủy thì tiêu hủy sinh mệnh theo tầng tầng đi xuống, cùng lúc chịu đựng tất cả tội ác thì sinh mệnh cũng đang tiêu vong.

這個德既然是這麼珍貴的東西,那麼能隨便的給人家嗎?你說那個氣功師不在害人嗎?害人還害他自己,他做惡太多。他叫你給人家治病,起了執著心之後,你根基要好,就用自己的德給人家看病,把病拿到你身上來,把德給他人。這些年有多少這樣的人給人家看完病,自己像得一場大病似的,回家難受去了。有多少這樣的人呢,不簡直太多了嗎?哪個人看病不是這樣的?其實都是這樣,給人看完病他難受去了,你就是用你的德跟人交換病。這還不算,你本來是一個能圓滿的人,可以往高層次上修得正果的,它一下子把你毀了。毀到甚麼成度啊?人的名利心是最難去的。誰要說自己好那簡直就美滋滋的,人人都有潛在的這樣一種很頑固的意識。誰要捧起自己,那簡直就飄飄然了;誰要叫你一聲氣功師,哎喲,你給我治好病了,你本事真大,你簡直就不知道多麼美了。

Đức này đã là thứ trân quý đến thế, vậy có thể tùy tiện cho người ta không? Chư vị nói xem khí công sư kia chẳng phải hại người sao? Hại người và còn hại cả bản thân họ, họ làm ác quá nhiều. Họ bảo chư vị trị bệnh cho người ta, sau khi khởi tâm chấp trước, nếu chư vị căn cơ tốt, thì sẽ dùng đức của mình để chữa bệnh cho người, lấy bệnh mang lên thân chư vị, cấp đức cho người. Những năm này có bao nhiêu người như thế chữa bệnh xong cho người ta, mà bản thân giống như mắc một trận bệnh nặng, về nhà rất khó chịu. Có bao nhiêu người như thế, chẳng phải quá nhiều sao? Có ai chữa bệnh mà không thế? Thực ra đều như vậy cả, chữa bệnh cho người ta xong thì họ khó chịu, chư vị chính là dùng đức của mình mà đổi lấy bệnh của người. Đây vẫn chưa hết, chư vị vốn là một người có thể viên mãn, có thể tu lên tầng thứ cao đắc chính quả; [vậy mà] nó ngay lập tức đã hủy chư vị rồi. Hủy đến mức độ nào? Tâm danh lợi của con người là khó bỏ nhất. Ai mà nói mình tốt thì hãnh diện lắm, ai ai cũng có loại ý thức tiềm tại rất ngoan cố này. Ai mà khen mình thì thấy quả là lâng lâng lắm; ai mà gọi chư vị một tiếng khí công sư, ái chà, bạn chữa khỏi bệnh cho tôi rồi, bản sự của bạn lớn thật, bạn quả là không biết là tốt đẹp đến nhường nào.

那麼這個名利心一起,大家想一想,要給你去掉這個心太難了。有多少人我告訴他,不讓他治病,他就是手癢癢,非要給人治。這個名利心起了,怎麼去啊?而且給人治病的時候,和病人形成一個場。因為你在世間法修煉,不管你修煉多高,你沒有防護自己的能力,你必然和病人是溝通的一個場,病人身上的病氣都返到你身上來。甚至於你比病人身上的病氣還多,可是病的根子在他那裏你動不了,你也治不好。他減輕了一點黑氣了,他覺的舒服了,這邊你難受去了。久而久之的,你一個病、兩個病你不在乎,久而久之的,誰的病你都給看,你甚麼病氣都弄的一身。有的氣功師告訴你往出排,我告訴你,修煉還得是修在自己,功在師父。你自己的常人之手,常人的意念能做了這些事情嗎?你要能把那病氣排出去,你自己得的長期不癒的病你排出去了嗎?你根本就排不出去的。所以感覺著氣往下走,好氣壞氣是一樣走的,走出去還要抽回來的,所以他不把你害的夠嗆嗎?你自己弄的一身髒,那個黑病氣是甚麼?就是業,反映到這個空間的身體上就是病。你自己遭一身病,名利心還起來了,這個心還難去,你給人看病你難受。

Cái tâm danh lợi này hễ khởi lên, mọi người nghĩ xem, nếu bỏ cái tâm này giúp chư vị thì quá khó. Có bao nhiêu người tôi nói với họ, không cho họ trị bệnh, họ liền ngứa ngáy chân tay, cứ nhất định phải trị cho người ta. Tâm danh lợi này khởi lên rồi, làm sao bỏ đi đây? Hơn nữa khi trị bệnh cho người ta, sẽ hình thành một trường với người bệnh. Vì chư vị tu luyện tại thế gian Pháp, bất kể chư vị tu luyện cao bao nhiêu, chư vị cũng không có năng lực tự bảo vệ mình, tất nhiên chư vị sẽ câu thông một trường với người bệnh, khí bệnh trên thân bệnh nhân đều chuyển sang thân thể chư vị. Thậm chí trên thân chư vị còn có nhiều khí bệnh hơn người bệnh, nhưng gốc rễ của bệnh ở trên thân họ thì chư vị không động đến nổi, chư vị cũng không chữa khỏi được. Họ đã bớt đi một chút khí đen rồi, họ cảm thấy thoải mái, [mà] bên này chư vị cảm thấy khó chịu. Dần dần, một bệnh, hai bệnh chư vị không để ý, dần dần, bệnh của ai chư vị cũng khám, khí bệnh gì chư vị cũng rước đầy cả thân. Có khí công sư bảo chư vị bài xuất ra; tôi nói với chư vị rằng, tu luyện vẫn phải là tu tại tự kỷ, công tại sư phụ. Bàn tay người thường, ý niệm người thường của chư vị có thể làm nổi những việc này không? Chư vị mà có thể bài xuất khí bệnh kia, hỏi cái bệnh mà tự chư vị mắc bấy lâu nay ấy thì chư vị có bài xuất ra được không? Chư vị hoàn toàn không bài xuất được. Cho nên cảm thấy khí chạy xuống dưới, khí tốt khí xấu đều chạy như nhau, chạy ra ngoài rồi vẫn sẽ kéo trở lại; vì vậy họ chẳng phải hại chư vị ghê gớm sao? Chư vị tự làm cho cả thân dơ bẩn, cái khí bệnh đen kia là gì? Chính là nghiệp, phản ánh đến thân thể ở không gian này chính là bệnh. Cả thân chư vị toàn là bệnh, tâm danh lợi cũng khởi lên rồi, tâm này mới là khó bỏ, chư vị khám bệnh cho người ta chư vị thấy khó chịu đựng.

在世間法修煉,很多人都不知道,開始一上來修煉的時候就是淨化身體。用氣灌通身體,把身體灌淨了,就這個目地,為高層次上修煉做準備,再打一些個基礎上的東西。到高層次上修煉,也是在不斷淨化、不斷淨化,更純淨、更純淨、更純淨,最後被高能量物質代替。整個世間法修煉都是在純淨自己的身體。那麼你想一想,你不斷的給人治病,不斷的把髒東西往自己身上弄,你不正好和修煉相違背嗎?你給人看病,你是真正的發自於那個大慈悲嗎?你不是。你是名利心指使的,你不是為了錢也是為了名。能看病了,手就癢癢,不給人看,好像顯不出本事,它不是這回事嗎?那麼修煉不就是去人的執著心嗎?你說這顆心怎麼去?他把你害的真不淺,所以我們這裏把不治病的根本原因講出來了。

Tu luyện tại thế gian Pháp, rất nhiều người đều không biết, khi mới bắt đầu tu luyện chính là tịnh hóa thân thể. Dùng khí quán thông thân thể, quán43 cho thân thể [trở nên] tịnh, chính là mục đích này; làm chuẩn bị cho tu luyện ở tầng thứ cao, và tạo một số những thứ cơ sở nữa. Đến tu luyện ở tầng thứ cao, cũng là không ngừng tịnh hóa, không ngừng tịnh hóa, càng thuần tịnh hơn, thuần tịnh hơn, thuần tịnh hơn, cuối cùng được vật chất cao năng lượng thay thế. Toàn bộ [quá trình] tu luyện thế gian Pháp là ở chỗ làm thuần tịnh thân thể của mình. Vậy chư vị nghĩ xem, chư vị không ngừng trị bệnh cho người ta, không ngừng rước những thứ dơ bẩn về thân thể mình, thế chẳng phải chư vị vừa vặn ngược lại với tu luyện sao? Chư vị coi bệnh cho người ta, chư vị có thực sự [xuất] phát từ tâm đại từ bi kia không? Chư vị không phải. Chư vị do tâm danh lợi sai khiến, chư vị không phải vì tiền thì là vì danh. Có thể khám bệnh rồi, tay liền ngứa ngáy, không xem cho người ta thì dường như là không thể hiện được bản sự, chẳng phải là thế sao? Mà tu luyện chẳng phải chính là vứt bỏ tâm chấp trước con người sao? Chư vị nói xem cái tâm này bỏ đi thế nào? Họ hại chư vị quả là không ít; thế nên ở đây chúng tôi giảng ra nguyên nhân căn bản của việc không trị bệnh.

真正能夠治病的,修煉的很高的人,但是也可能沒有開悟。這種人偶爾的看到好人給治一下,這是可以的,但是往往是不留名不計報的,多數是這樣。其實他也不能夠根本的解決問題,他只能把這個難給你推移,從我們這個表面的物質空間給你壓下去,壓到深層物質空間中去,但是它終究還會返上來的。還有就是他把這個東西給你轉化,轉化成你不得病,讓你遭災。有許多修煉方法是副意識修煉。你別看他有功,他自己有甚麼功?甚麼形態?那功是甚麼狀態?怎麼出來的?怎麼修煉過來的?那功存在於哪兒?他根本甚麼都不懂,他只知道去做,其實做那件事情是副意識做的,副元神在修嘛。所以他給你推移或者轉化到其他人身上,隨便轉化也不行,只能是親朋好友。但是還是有交換條件的,不能白給人病,你得付出,它有這樣層理。

Người thực sự có thể trị bệnh, người tu luyện được rất cao, nhưng có thể chưa khai ngộ. Loại người này ngẫu nhiên nhìn thấy người tốt thì [chữa] trị cho một chút, cái đó khả dĩ; nhưng thông thường không lưu danh không cần báo đáp; đa số là vậy. Thực ra họ cũng không thể giải quyết vấn đề một cách căn bản, họ chỉ là chuyển dịch cái nạn này cho chư vị, từ không gian vật chất bề mặt này của chúng ta ép xuống, ép vào trong không gian vật chất ở tầng sâu, nhưng nó cuối cùng vẫn sẽ quay trở lại. Còn nữa chính là họ chuyển hóa thứ này cho chư vị, chuyển hóa thành chư vị không mắc bệnh, [nhưng] chư vị gặp nạn. Có rất nhiều phương pháp tu luyện là phó ý thức tu luyện. Chư vị chớ thấy họ có công, bản thân họ có công gì? Hình thái gì? Công đó là trạng thái nào? Xuất ra như thế nào? Làm thế nào tu luyện được? Công kia tồn tại nơi đâu? Họ hoàn toàn không hiểu gì hết, họ chỉ biết đi làm, chứ thực ra làm việc đó là phó ý thức làm; phó nguyên thần tu mà. Vì vậy họ chuyển dịch hoặc chuyển hóa sang thân thể người khác giúp chư vị; tùy tiện chuyển hóa cũng không được, chỉ có thể là người thân bạn bè. Nhưng vẫn là có điều kiện hoán đổi, không thể đẩy bệnh cho người ta không, chư vị phải phó xuất, nó có tầng Lý như vậy.

講到這兒了跟大家說,你別看有些氣功師名氣很大,他完全是在禍亂人類社會,現在很少有塊淨土。我們常人社會的工作單位都是一樣,哪個單位沒有那些個破壞我們人類社會、常人社會的事情呀?到處都是魔。氣功本身就是修煉,這塊能是淨土嗎?有人破壞我們法輪大法,為甚麼呢?還不是為了名和利他得不到了。當然這個魔要不存在還不行。這個魔要不存在那也太好修了,你這法輪大法甚麼障礙都沒有就往上修,這也太簡單了。因為去人的心方方面面都得體現出來的,特別是我們法輪大法有的煉功點上,出現了這樣的人,自己說我就是佛了,你們別跟李洪志學了。為甚麼會有這個現象呢?就是從根本上看你動不動搖?一直到你修煉到最後一步,還考驗你這顆心,看你從根本上對法認不認識、穩不穩定的問題。方方面面都得提高,都得紮實。

Giảng đến đây tôi nói với mọi người rằng, chư vị chớ thấy những khí công sư danh tiếng rất lớn, họ hoàn toàn là gây họa làm loạn xã hội nhân loại, hiện nay rất ít có nơi tịnh thổ. Đơn vị công tác nơi xã hội người thường chúng ta cũng vậy, đơn vị nào mà không có sự việc phá hoại xã hội nhân loại, xã hội người thường chúng ta chứ? Đến đâu cũng là ma. Khí công bản thân chính là tu luyện, nơi đây có thể là tịnh thổ chăng? Có người phá hoại Pháp Luân Đại Pháp chúng ta, tại sao vậy? Còn chẳng phải vì danh và lợi mà họ không đạt được. Đương nhiên ma kia mà không tồn tại thì cũng không được. Ma kia nếu không tồn tại thì tu dễ quá, Pháp Luân Đại Pháp này của Ông chẳng có chướng ngại gì cứ tu lên trên, thế cũng quá đơn giản. Bởi vì vứt bỏ tâm con người về mọi phương diện đều phải thể hiện ra, đặc biệt Pháp Luân Đại Pháp chúng ta có điểm luyện công, đã xuất hiện người thế này, tự nói ta chính là Phật, các ngươi đừng học theo Lý Hồng Chí nữa. Tại sao lại có hiện tượng này? Chính là từ căn bản xem chư vị có dao động không? Một mạch cho đến khi chư vị tu luyện tới bước cuối cùng, vẫn sẽ khảo nghiệm cái tâm này của chư vị, xem chư vị từ căn bản đối với Pháp có nhận thức được không, có ổn định hay không. Các loại phương diện đều phải đề cao, đều phải thiết thực.

我講到這兒,跟大家說一個問題:將來世間小道小法治病還可能存在的,它只不過就是那種形式存在的。它怎麼治的,我也講了,能力很小。小病可以治,大病治不了。但是極個別修煉的人,針對個別極少數人也可以做,但是大面積的干擾社會,這種事情保證他做不來。有的所謂的氣功師辦很多人的班教人下去治病,都成氣功大夫,甚麼病都能治。要按這個說,那人類都沒有病了,他不可能達到的,就是這樣一個理。但是能不能治病呢?治就是那個狀態,就是那種形式,所以我們法輪大法是往高層次上傳功,真正的修煉。

Giảng đến đây, tôi nói với mọi người một vấn đề: Tương lai trị bệnh của tiểu đạo tiểu pháp thế gian vẫn có thể tồn tại, nó chỉ bất quá là tồn tại dưới hình thức ấy. Nó trị bệnh thế nào, tôi cũng giảng rồi, năng lực rất nhỏ. Bệnh nhẹ có thể trị, bệnh nặng thì không trị được. Nhưng người tu luyện cực cá biệt, nhắm vào cực ít người cá biệt thì cũng có thể làm; chứ can nhiễu xã hội trên diện rộng, thì sự việc đó đảm bảo họ không làm được. Có người gọi là khí công sư mở lớp với rất nhiều người dạy người ta đi trị bệnh, đều thành bác sỹ khí công cả, bệnh gì cũng có thể trị. Nếu theo thuyết ấy thì nhân loại cũng chẳng có bệnh nữa; họ không thể nào đạt được, chính là Lý như thế. Nhưng có thể trị bệnh hay không? Trị [bệnh] chỉ là là trạng thái kia, chỉ là hình thức kia thôi; Pháp Luân Đại Pháp chúng ta là truyền công lên tầng thứ cao, là tu luyện chân chính.

真正的修煉就等於是度人,所以我也跟大家說明白了,真正修煉法輪大法,你就不能動手給人治病。你要真正治病,就視為破壞這個法,禍亂這個法。所以你只要去給人家治病,我也就不會把那麼珍貴的東西叫你把他破壞了,污染了,那麼我的法身都會把法輪和機制等一切都收回來。你看哪個真正修煉的人,給人開門看病,搞這種事。過去那個修道的人也好,修佛的和尚也好,哪有說給你看病的?用藥治病是有的,或者極個別的運用功能治病是允許的,還得有條件的去做,無條件的還不行。咱們這個事情說明白了,利害關係我也跟大家講了,確實是對你傷害是很大很大的。你沒想一想,一個氣功師要給人家治病,得經過幾十年的修煉才能修煉出來那個功能,才能修煉出來那個本事。噢,你學了三天能治病、五天能治病,十天能治病,這不兒戲一樣嗎?都有思想怎麼不想一想?你三天就是氣功師了,我說這個「道」修起來也太容易了,像地上的這個石頭一樣,撿起來就成佛了。這個問題就講這麼多,因為要講的東西實在太多,辦班講十五、六個小時的東西也不可能一下都給大家講出來。

Tu luyện chân chính cũng bằng như độ nhân, vì vậy tôi cũng nói rõ với mọi người rồi, chân chính tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thì chư vị không thể động thủ trị bệnh cho người khác. Nếu chư vị thực sự trị bệnh, thì được coi là phá hoại Pháp này, làm loạn Pháp này. Cho nên chư vị chỉ cần đi trị bệnh cho người ta, thì tôi cũng sẽ không để chư vị phá hoại, làm ô nhiễm những điều trân quý nhường ấy, như thế Pháp thân của tôi sẽ thu hồi Pháp Luân và cơ chế cũng như hết thảy về. Chư vị thấy có người tu luyện chân chính nào, mở cửa chữa bệnh cho người, làm ra việc thế này đâu. Trước đây người tu Đạo cũng vậy, hòa thượng tu Phật cũng vậy, nào có thuyết rằng chữa bệnh cho chư vị chứ? Dùng thuốc chữa bệnh là có, hoặc là cực cá biệt vận dụng công năng trị bệnh thì được phép, còn phải có điều kiện mới được làm, không có điều kiện thì cũng không được. Về việc này chúng ta đã nói rõ rồi, quan hệ lợi hại [thế nào] tôi cũng đã giảng cho mọi người rồi; xác thực là gây tổn hại rất lớn rất lớn đối với chư vị. Chư vị từng nghĩ chưa, một khí công sư muốn trị bệnh cho người ta, [là] phải kinh qua hàng chục năm tu luyện mới có thể tu luyện ra được công năng ấy, mới có thể tu luyện ra được bản sự ấy. Ồ, chư vị học ba ngày có thể trị bệnh, năm ngày có thể trị bệnh, mười ngày có thể trị bệnh; thế không phải trò đùa là gì? Đều có tư tưởng thì tại sao không thử nghĩ một chút? Ba ngày là chư vị thành khí công sư rồi; tôi nói cái “đạo” này tu cũng dễ dàng quá rồi, giống như hòn đá trên mặt đất vậy, nhặt lên là thành Phật. Vấn đề này [tôi] giảng bấy nhiêu thôi, bởi vì điều cần giảng thực sự quá nhiều, mở lớp giảng mười lăm, mười sáu tiếng đồng hồ cũng không thể lập tức giảng ra hết cho mọi người được.

要想修煉,我說就是要把法學好,我們法輪大法的《轉法輪》這本書已經出來了,整個都是我講課的內容,完整的把他拿出來了,所以這可以作為將來在我們這一門中修煉的依據。不多講了,簡單的就講這麼多了。最後希望大家在這個大法的修煉中早日功成圓滿!

Nếu muốn tu luyện, tôi nói rằng phải học Pháp cho tốt, cuốn sách «Chuyển Pháp Luân» của Pháp Luân Đại Pháp chúng ta đã xuất bản rồi, toàn bộ đều là nội dung bài giảng của tôi, đã đưa Nó ra một cách hoàn chỉnh rồi, vì vậy đây có thể coi là nền tảng để tu luyện trong môn này của chúng ta trong tương lai. Không giảng nhiều nữa, giảng đơn giản bấy nhiêu thôi. Cuối cùng hy vọng mọi người trong tu luyện Đại Pháp này sớm ngày công thành viên mãn!


* * * * * * * * *

Giải đáp thắc mắc tại giảng Pháp ở Trường Xuân

長春講法答疑

Giải đáp thắc mắc tại giảng Pháp ở Trường Xuân

李洪志

Lý Hồng Chí

弟子:老師講現在是末法時期,佛、道、神對常人中的事情都不管了,那您為甚麼還要管哪?

Đệ tử: Thầy giảng hiện tại là thời kỳ mạt Pháp, Phật Đạo Thần không quản những việc nơi người thường nữa, vậy sao Ngài vẫn muốn quản?

師:因為我是常人中的人,別人都不管了,我要管,這是我自己要做的事情。但是哪,也不是腦袋一熱就能夠做的來的。

Sư phụ: Vì tôi là người trong cõi người thường, người khác không quản nữa, tôi muốn quản, đây là việc tôi cần làm. Nhưng, cũng không phải là đầu não nhất thời nóng lên là có thể làm được.

弟子:我丈夫練某某氣功與我修煉法輪大法有無衝突?

Đệ tử: Chồng con luyện khí công khác thì có xung đột với con luyện Pháp Luân Đại Pháp hay không?

師:你煉你的,他練他的。他想煉大法你就教他,他不想煉,你就煉你的,怕也是執著,不動心就沒有問題。

Sư phụ: Chư vị luyện của chư vị, họ luyện của họ. Họ muốn luyện Đại Pháp thì chư vị dạy họ; họ không muốn luyện, thì chư vị luyện [công] của chư vị; ‘e sợ’ cũng là chấp trước, bất động tâm thì sẽ không có vấn đề gì.

弟子:沒有往高層次修煉的思想就是停在祛病健身的層次,請問老師我能不能圓滿?我憑著自己的良心在社會常人中做一個好人,死後元神去何方?

Đệ tử: Không có tư tưởng [muốn] tu luyện lên cao tầng thì chỉ là dừng tại tầng thứ trị bệnh khỏe người thôi, xin hỏi Thầy con có thể viên mãn không? Con làm một người tốt trong xã hội người thường theo lương tâm của mình, sau khi chết nguyên thần sẽ đi về đâu?

師:你連想要向高層次上修煉的想法都沒有,你還圓滿甚麼呀?你看,問題是「我沒有往高層次上修煉的思想」,首先就是這樣說的,那你還得甚麼圓滿?下一輩子轉成甚麼可不一定,但是可能積了德了,做了好事。那麼做了好事、積了德、吃了苦了,可能你的德就大,因為你不想煉功也不轉化成功,下一輩子可能就得福報了。

Sư phụ: Ngay cả suy nghĩ muốn tu luyện lên cao tầng chư vị cũng không có, thì chư vị còn viên mãn gì đây? Chư vị hãy xem, câu hỏi là: “Con không có tư tưởng tu luyện lên cao tầng”, ngay đầu tiên đã nói thế rồi, vậy thì chư vị còn đắc viên mãn nào chứ? Đời sau chuyển sinh thành gì còn chưa chắc chắn, nhưng có thể tích đức, đã làm việc tốt. Như vậy làm việc tốt rồi, tích đức rồi, chịu khổ rồi, có thể đức của chư vị sẽ lớn; vì chư vị không muốn luyện công [nên đức] cũng không chuyển hóa thành công, đời sau có thể sẽ đắc phúc báo.

弟子:學員研究周易對煉功有無影響?

Đệ tử: Học viên nghiên cứu Chu Dịch thì có ảnh hưởng tới luyện công hay không?

師:它那個東西只是我們這個銀河系之中的理,不是更大的理。而我們煉的法更大,這個大法夠你研究一輩子的。

Sư phụ: Thứ đó nó chỉ là cái Lý trong hệ Ngân Hà này của chúng ta, không phải Lý lớn hơn. Còn Pháp chúng ta luyện là to lớn hơn, Đại Pháp này đủ để chư vị nghiên cứu cả đời.

弟子:整容後鼻樑裏填塞了矽膠這種東西?

Đệ tử: Sau khi phẫu thuật thẩm mỹ sống mũi nhét đầy silicon thì sao?

師:沒有關係。我們有的人問了,我做了節育手術了或者我摘除甚麼了,都沒有關係。我告訴你,你那個真體沒有摘除,照樣煉,甚麼都可以修出來的。

Sư phụ: Không sao. Chúng ta có người từng hỏi, con đã làm phẫu thuật tuyệt dục rồi hoặc con đã cắt bỏ thứ gì rồi, đều không sao cả. Tôi bảo chư vị này, chân thể44 đó của chư vị không bị cắt bỏ, cứ luyện y như thế, thứ gì cũng có thể tu xuất lai.

弟子:我每當心裏一想到法輪就打冷戰,這是甚麼原因?

Đệ tử: Mỗi lần trong tâm con hễ nghĩ tới Pháp Luân thì lại lạnh rùng mình, đây là do nguyên nhân gì?

師:要是有附體可能會出現這個情況。但是在學習班上我們大多數都處理了,只有極少數的思想還沒變過來的不堅定想修的沒清理。處理時沒有深查。

Sư phụ: Nếu có phụ thể thì có thể sẽ xuất hiện tình huống này. Nhưng trong lớp học của chúng ta đại đa số đều đã được xử lý, chỉ có một số rất ít người mà tư tưởng còn chưa chuyển biến không kiên định muốn tu luyện thì chưa được thanh lý. Khi xử lý không tra [xét] sâu [hơn].

弟子:說提幹是命中註定的,那人就不用努力表現了,一切等待命運安排?

Đệ tử: Nói rằng việc đề đạt làm cán bộ đã được định ra trong mệnh45, vậy thì người ta không cần nỗ lực thể hiện nữa, mọi chuyện cứ chờ đợi vận mệnh an bài chăng?

師:法是講給修煉人的,作為一個常人今天就是我告訴你是這麼回事,你都得去爭去鬥,因為你是個常人,你會不相信的,這就是常人。常人他是不相信這回事的。甚至於你的爭、你的鬥都是必然的了。

Sư phụ: Pháp là giảng cho người tu luyện, làm một người thường hiện nay chính là —tôi bảo chư vị này— chính là vậy mà; chư vị đều phải đi tranh đi đấu, bởi vì chư vị là người thường, chư vị là không tin [Lý đó] đâu, đây chính là người thường. Người thường sẽ không tin chuyện này. Thậm chí tranh giành kia của chư vị, đấu đá kia của chư vị cũng là tất nhiên rồi.

弟子:煉功期間我的身體不由自主的擺動?

Đệ tử: Lúc luyện công cơ thể con lắc lư một cách không tự chủ?

師:不要擺動,不要不由自主的擺動。你實在要擺動你睜開眼睛,它就不擺動了,直到你將來不擺動為止。

Sư phụ: Không được lắc động, không được lắc động một cách không tự chủ. Nếu quả thực chư vị lắc động thì chư vị hãy mở mắt ra, nó sẽ không lắc nữa, cho tới khi tương lai sau này chư vị không lắc nữa thì thôi.

弟子:煉法輪大法時,尤其是煉第二套法輪樁法時,雙手感到抱一團氣,若不是有意識控制會被這團氣把手往裏拉,有時往外推?

Đệ tử: Khi luyện Pháp Luân Đại Pháp, đặc biệt là luyện bài thứ hai Pháp Luân Trang Pháp, hai tay cảm thấy như ôm một khối khí, nếu không phải là cố ý khống chế thì sẽ bị khối khí này kéo tay vào trong, đôi khi lại đẩy ra ngoài?

師:這就是法輪在轉,你的感覺就是那個法輪在旋轉的感覺。

Sư phụ: Đây là do Pháp Luân đang quay, cảm giác của chư vị chính là cảm giác Pháp Luân này đang xoay chuyển.

弟子:帶楞嚴咒煉功有沒有影響?

Đệ tử: Luyện công mang theo chú Lăng Nghiêm liệu có bị ảnh hưởng không?

師:我講了念咒那就是求得那一法門的加持。你們有我的法輪,有我的法身管你,你還念那個幹甚麼?你想腳踩兩隻船?你想摻進別的東西往裏修?不就是這個意思嗎?這樣你甚麼也得不到。

Sư phụ: Tôi giảng rồi niệm chú chính là cầu xin gia trì của Pháp môn đó. Chư vị có Pháp Luân của tôi, có Pháp thân của tôi quản chư vị, chư vị còn niệm thứ đó làm gì? Chư vị muốn chân đặt trên hai thuyền46 chăng? Chư vị muốn trộn lẫn thứ khác vào trong mà tu ư? Chẳng phải chính là ý này sao? Như vậy chư vị sẽ không đắc được gì cả.

弟子:我經常搬家,您的法身會幫我清理房屋嗎?

Đệ tử: Con thường hay chuyển nhà, Pháp thân của Ngài sẽ giúp con thanh lý nhà cửa đúng không?

師:真正煉功人走到哪兒都是會幫的。為了搬家清理房屋你甚麼也得不到,我不是來給你清理房子的。

Sư phụ: Người luyện công chân chính đi tới đâu [tôi] đều sẽ giúp. Nếu chuyển nhà vì [để được] thanh lý nhà cửa thì chư vị không đắc được gì cả, tôi không phải tới dọn dẹp nhà cho chư vị.

弟子:在出現景象時收勢會對修煉功法和長功有甚麼影響?

Đệ tử: Khi cảnh tượng xuất hiện thu thế có ảnh hưởng gì tới tu luyện công pháp và tăng công không?

師:說眼前看到了景象了,煉功停下來對你煉功有啥影響?沒有啥影響。但是我們一般的眼前出現景象時,你最好靜靜的觀察它,一直到這種景象過去還是比較好。一出現你就不看它,好像你就不想要了,那麼可能這個狀態就等於是放棄它,所以我們還是叫你看,但是不要產生任何執著心。

Sư phụ: Chẳng hạn cảnh tượng tới ngay trước mắt, hỏi dừng luyện công có ảnh hưởng gì tới việc chư vị luyện công? Không ảnh hưởng gì. Nhưng thông thường khi trước mắt xuất hiện cảnh tượng [nào đó], tốt nhất chư vị hãy quan sát nó một cách tĩnh lặng, cho tới khi cảnh tượng này qua đi thì còn tốt hơn. Hễ xuất hiện là chư vị không nhìn nó, dường như chư vị không muốn, vậy thì có thể trạng thái này tương đương với việc vứt bỏ nó, cho nên chúng tôi vẫn bảo chư vị nhìn, nhưng không được nảy sinh bất kỳ tâm chấp trước nào.

弟子:找對像算不算執著?

Đệ tử: Tìm đối tượng có được tính là chấp trước không?

師:我們很多年輕人都是要找對像成家的,在常人中修的不是叫你當尼姑的,這沒有問題。我們這個法門主要叫你在常人這個複雜的環境中去修煉。

Sư phụ: Rất nhiều người trẻ tuổi chúng ta đều muốn tìm đối tượng lập gia đình, tu trong người thường thì không bảo chư vị làm ni cô, điều này không có vấn đề gì. Pháp môn này của chúng ta chủ yếu bảo chư vị ở trong hoàn cảnh phức tạp này của người thường mà tu luyện.

弟子:小孩聽課後不能堅持煉功,法輪能否永遠保護他?

Đệ tử: Trẻ nhỏ sau khi nghe giảng không thể kiên trì luyện công, liệu Pháp Luân có vĩnh viễn bảo vệ cháu hay không?

師:不能堅持煉功那就不行了吧,是不是?得堅持煉功。我是來度修煉人的,不是專來保護常人的。

Sư phụ: Không thể kiên trì luyện công thì không được, đúng vậy không? Cần phải kiên trì luyện công. Tôi là tới độ người tu luyện, không phải tới để chuyên bảo hộ người thường.

弟子:我感覺到我身體上的法輪旋轉時,有時不到一圈就改變方向了?有的人還感覺到這個法輪轉了一百多圈才倒過來轉,為甚麼呢?

Đệ tử: Con cảm thấy khi Pháp Luân quay trên thân thể con, đôi lúc chưa được một vòng đã chuyển hướng? Có người còn cảm thấy Pháp Luân này quay hơn trăm vòng mới chuyển [hướng], là vì sao?

師:因為在初期給你調整身體的時候他是不規則的。他是靈體,他知道怎麼給你調,直到給你調好為止。等到身體調整完了,以後完全適應過來了,他就很自然正轉九次反轉九次,但那個時候你就沒有感覺了,不是說永遠有感覺。大家知道你的胃是在蠕動,你知道你的胃在動嗎?它是你的身體一部份的時候、它順應過來的時候,你就感覺不到它的存在形式了。

Sư phụ: Vì thời kỳ đầu khi điều chỉnh thân thể cho chư vị Nó là không có quy luật. Nó là linh thể, Nó biết điều chỉnh cho chư vị như thế nào, tới khi điều chỉnh xong cho chư vị thì thôi. Đợi tới khi thân thể điều chỉnh xong, sau đó qua phần hoàn toàn thích ứng, Nó sẽ rất tự nhiên xoay thuận chiều chín lần, xoay ngược chiều chín lần, nhưng lúc đó chư vị sẽ không còn cảm giác nữa, không nói rằng vĩnh viễn có cảm giác. Mọi người biết đó dạ dày chư vị đang co bóp, chư vị có biết dạ dày của mình đang vận động không? Khi Nó là một bộ phận trên thân thể chư vị, khi Nó đã thích ứng với thân thể, chư vị sẽ không cảm giác được hình thức tồn tại của Nó.

弟子:老師給我們講的法和天機,我們是否可以講給不煉功的人聽?

Đệ tử: Thầy giảng Pháp và thiên cơ cho chúng con, chúng con có thể giảng lại cho những người không luyện công nghe được không?

師:對普通人,不要輕易給他講的很高,講了他不相信。他如果相信倒是可以講,不然不信的人會破壞大法。

Sư phụ: Đối với người phổ thông, thì đừng khinh suất giảng thật cao cho họ, có giảng họ cũng không tin. Nếu họ tin thì có thể giảng, nếu không những người không tin sẽ phá hoại Đại Pháp.

弟子:煉功人是否能夠在去掉執著心的情況下,保持努力爭取盡力而為的行動狀態?

Đệ tử: Người luyện công có thể trong tình huống trừ bỏ tâm chấp trước, mà vẫn duy trì được trạng thái hành động nỗ lực tranh thủ tận lực mà làm việc hay không?

師:在現有的這個階段上,叫人完全放棄無為,不現實。在你現有的這個階段,儘管我要求你很嚴,你也會在常人中儘量為了個人利益去努一點力,這個原則上沒有問題。但是慢慢的隨著你提高,這些心都得逐漸的放淡。一下子做到我說那個也不現實。再有去掉執著心,保持努力爭取,你要保持的本身不就是執著嗎?你提的問題很矛盾。

Sư phụ: Trong giai đoạn hiện có này, bảo người ta hoàn toàn vứt bỏ trở thành vô vi, thì không thực tế. Trong giai đoạn hiện có của chư vị, dù tôi yêu cầu chư vị rất nghiêm, thì chư vị vẫn ở nơi người thường mà gắng hết sức vì lợi ích cá nhân đi nỗ lực thêm chút; về nguyên tắc điều này không hề gì. Nhưng dần dần thuận theo chư vị đề cao, những tâm này đều phải dần dần xem nhẹ. Làm được ngay tức khắc thì tôi nói điều đó cũng không thực tế. Còn về vứt bỏ tâm chấp trước [trong khi vẫn] duy trì nỗ lực đạt được điều này điều khác, bản thân việc chư vị muốn bảo trì [điều đó] chẳng phải cũng là chấp trước sao? Vấn đề chư vị nêu ra rất mâu thuẫn.

弟子:用您的照片我已把佛像、經書以及佛龕都開光了,但佛像的法身是否是您的法身?現在是否上香?

Đệ tử: Con đã dùng ảnh của Ngài khai quang cho tượng Phật, kinh sách và bàn thờ Phật, nhưng Pháp thân trên tượng Phật có phải là Pháp thân của Ngài không? Hiện giờ có thể dâng hương hay không?

師:原則上我不做這些事情,常人我們也不管。修煉的人你不太相信將來就更難啦。

Sư phụ: Về nguyên tắc tôi không làm những chuyện này, người thường chúng tôi cũng không quản. [Làm] người tu luyện mà chư vị không tin lắm thì tương lai sẽ càng khó hơn.

弟子:一煉功就渾身出汗,這種現象好嗎?

Đệ tử: Hễ luyện công là khắp người đổ mồ hôi, hiện tượng này có tốt không?

師:那當然好哇。出汗本身也是在排泄不好的東西,說明你身體熱了。人有病身體是涼的。說明你煉的不錯。

Sư phụ: Đương nhiên là tốt. Bản thân việc đổ mồ hôi cũng là đang bài tiết những thứ không tốt, nói lên rằng thân thể chư vị nóng lên. Người có bệnh thân thể sẽ lạnh. Chứng tỏ chư vị luyện khá tốt.

弟子:一個大德之士是否必須有許多人的墮落、損德,才能積大德?

Đệ tử: Người đại đức phải chăng ắt có rất nhiều người trụy lạc, tổn đức, mới có thể tích đại đức?

師:一個大德之士他自己能夠有大忍之心,他自己能吃苦中之苦,這與別人有甚麼關係呀?!至於說他能夠修多高層次,必須得有別人損德,不是這麼回事。在修煉過程當中,人就是這樣的找你還業,你除非脫離這個環境去修,那也要換一種方式還業,雖然這樣,可是那修的也不是你,你在這個環境當中去修它是必然的。人哪,他必然會招惹你的,就像你在常人中一定會造業一樣。

Sư phụ: Người đại đức họ tự mình có thể có tâm đại nhẫn, tự họ có thể chịu được khổ trong khổ, điều này có quan hệ gì tới người khác?! Còn như nói họ có thể tu tới tầng thứ cao ngần nào, thì ắt có người khác tổn đức; không phải vậy đâu. Trong quá trình tu luyện, người ta sẽ tìm chư vị trả nghiệp như vậy, trừ phi chư vị thoát ly khỏi hoàn cảnh này mà tu; [mà] thế cũng phải trả nghiệp theo một hình thức khác; mặc dù vậy, nhưng người tu kia cũng không phải chư vị; [còn] chư vị tu trong hoàn cảnh này thì đó là tất nhiên. Con người mà, họ tất nhiên sẽ sinh chuyện với chư vị, giống như chư vị ở nơi người thường nhất định sẽ tạo nghiệp vậy.

弟子:一天煉功幾次為好?

Đệ tử: Một ngày luyện công mấy lần thì tốt?

師:有時間多煉,沒時間少煉,幾次都可以。初期儘量多煉比較好。你煉是加強這個機,而你真正的長功和身體變化、功能加強都是我們給你下的那種機制在起作用,你煉是加強機能。

Sư phụ: Có thời gian thì luyện nhiều, không có thời gian thì luyện ít, mấy lần đều được. Thời kỳ đầu cố gắng luyện nhiều thì tốt hơn. Chư vị luyện là gia cường bộ cơ này; còn việc chư vị thực sự tăng công và thân thể biến hóa, gia cường công năng ấy đều là do loại cơ chế mà chúng tôi cài cho chư vị đang khởi tác dụng; chư vị luyện là gia cường cơ năng [đó].

弟子:在常人社會中總要產生各種思想,思考各種問題會使法輪變形嗎?

Đệ tử: Trong xã hội người thường vẫn phải sinh ra các chủng tư tưởng, suy nghĩ đủ loại vấn đề thì có khiến Pháp Luân biến dạng không?

師:這不會變形,正常工作和一般思考在修煉過程中是正常的。你老是思考個人利益,別人怎麼招惹不了你這些問題,心和常人一樣那怎麼提高?就會影響你的提高。

Sư phụ: Sẽ không biến dạng, làm việc bình thường và suy nghĩ thông thường là điều chính thường47 trong quá trình tu luyện. Chư vị cứ mãi suy nghĩ lợi ích cá nhân, những vấn đề như làm sao để người khác không động đến chư vị được, tâm giống người thường thì đề cao thế nào? [Như vậy] sẽ ảnh hưởng tới đề cao của chư vị.

弟子:靜坐時耳朵響,頭腦中變成一片空白?

Đệ tử: Khi ngồi tĩnh tọa tai có tiếng vang, đầu não biến thành trống rỗng không có gì?

師:這是個好事,就是你的雜念都沒有了,這很好。但是必須得知道自己是在煉功。

Sư phụ: Đây là chuyện tốt, chính là tạp niệm của chư vị đều không còn nữa, như vậy rất tốt. Nhưng ắt phải biết rằng bản thân đang luyện công.

弟子:出功時是否修到以主意識為主?

Đệ tử: Khi xuất công phải chăng là tu tới mức lấy chủ ý thức làm chủ?

師:不是這麼認識的。副意識也跟著煉功,也得功。但是將來他一直就是作為副意識存在,你永遠是主體。

Sư phụ: Không phải nhận thức như vậy. Phó ý thức cũng luyện công theo, cũng đắc công. Nhưng tương lai họ vẫn luôn làm phó ý thức mà tồn tại, chư vị vĩnh viễn là chủ thể.

弟子:我煉功時有點昏迷?

Đệ tử: Khi luyện công con hơi mê mờ?

師:有點昏迷就睜開眼睛煉,不要再迷迷糊糊的煉了。

Sư phụ: Nếu hơi mê mờ thì mở mắt mà luyện, đừng luyện một cách mơ mơ màng màng như vậy nữa.

弟子:仰臥時做四個抱輪動作可否?

Đệ tử: Khi nằm ngửa làm bốn động tác ôm bão luân có được hay không?

師:不要這樣,我也沒有教你這樣。有的人好像是覺的這樣煉功舒服、不累,那哪行啊?煉功那點苦還吃不了嗎?

Sư phụ: Không được như vậy, tôi cũng không dạy chư vị thế. Có người dường như cảm thấy luyện công như vậy dễ chịu, không mệt; thế đâu có được? Luyện công có chút khổ đó cũng không chịu nổi sao?

弟子:我以前煉坐功時常出現景物,由於下意識封閉再不出了?

Đệ tử: Trước kia khi con ngồi luyện công thường xuất hiện các cảnh vật; có phải do hạ ý thức bị phong bế nên không xuất hiện nữa?

師:不要管它,不要執著它。那是以前的事情了,將來煉功出現甚麼情況都隨其自然。只要不執著,看到本來是好事。

Sư phụ: Đừng quản nó, đừng chấp trước vào nó. Đó là những chuyện trước kia, tương lai luyện công xuất hiện tình huống nào cũng đều tùy kỳ tự nhiên48. Chỉ cần đừng chấp trước, nhìn thấy thì vốn là chuyện tốt.

弟子:這次沒參加班,自己經常看書學習能不能有甚麼效果?

Đệ tử: Lần này không tham gia lớp học, tự con thường xuyên đọc sách học tập liệu có thể có hiệu quả gì không?

師:沒參加班自己學習,真正能夠按照書中要求煉功人的心性去修煉,同樣能得到明顯效果。

Sư phụ: Không tham gia lớp học tự mình học tập, [nếu] có thể thực sự tu luyện theo yêu cầu về tâm tính của người luyện công như trong sách, thì cũng có thể đắc được hiệu quả rõ ràng như nhau.

弟子:佛家最低果位是甚麼?

Đệ tử: Trong Phật gia quả vị thấp nhất là gì?

師:佛家最低的果位就是羅漢。因為再低就沒有果位了,不得正果了,就跳不出三界。

Sư phụ: Quả vị thấp nhất trong Phật gia chính là La Hán. Bởi vì thấp hơn thì không có quả vị rồi, không đắc chính quả, không nhảy thoát khỏi tam giới.

弟子:凡是煉法輪大法者只要功夫達到即可達到佛體修煉嗎?

Đệ tử: Phàm là người luyện Pháp Luân Đại Pháp chỉ cần đặt đủ công phu thì có thể đạt được tu luyện Phật thể phải không?

師:大法無邊,佛法無邊,全憑你那顆心去修。修到出世間法時就開始佛體修煉了。

Sư phụ: Đại Pháp vô biên, Phật Pháp vô biên, toàn dựa vào cái tâm của chư vị mà tu. Khi tu đến xuất thế gian Pháp là đã bắt đầu tu luyện Phật thể rồi.

弟子:副意識和主意識是否不是倆個人?

Đệ tử: Phó ý thức và chủ ý thức phải chăng là hai người?

師:都是你一個人,叫一個名字,和你同時從娘胎裏出來的,但是卻是兩個意識。

Sư phụ: Đều là một người chư vị, gọi cùng một tên, đồng thời sinh ra từ thai mẹ với chư vị, nhưng lại là hai ý thức.

弟子:我們怎麼傳功傳法?

Đệ tử: Chúng con truyền công truyền Pháp như thế nào?

師:關於我們法輪大法的學員如何去教功的問題,我們都談到了,你可以去教、去傳。傳正法你是積德、做好事、度人,你可以去傳去講,但是不要用你的話去講,要用老師怎麼講的,我的書中怎麼寫的,按這套方法去做。摻雜進去任何你自己的想法、你自己看到的景象去說,傳的都不是我們法輪大法!你在自己那個層次中,你所認識到的那個理不是個完整的法,我們是結合著很高層次中的理在講,所以你那個東西沒有指導作用。你別看你看到了甚麼,知道了甚麼,它有這樣個問題。再有我們傳功過程中都是屬於義務,做好事,積功德。作為煉功人你求甚麼?不求名利,是不是?我們求的是功德,所以不准任何人收費。不准任何人採用我這種形式傳功。開個座談會,大家在煉功點上互相切磋,這是可以的。因為這個法你是講不了的。有的人說我是當教師的,你那是兩回事情。這個法可有很深很深的內涵的,不同層次中都有不同的指導作用,你是根本無法講的。

Sư phụ: Về vấn đề học viên Pháp Luân Đại Pháp chúng ta dạy công như thế nào, thì chúng ta đều đã nhắc tới; chư vị có thể đi dạy, đi truyền. Truyền chính Pháp thì chư vị là tích đức, làm việc tốt, độ nhân; chư vị có thể đi truyền đi giảng, nhưng không được dùng lời của chư vị mà giảng, phải [nói] Thầy giảng như thế nào, trong sách của tôi viết như thế nào, chiểu theo phương pháp này mà làm. Trộn lẫn vào bất kỳ cách nghĩ nào của bản thân chư vị, [hay theo] cảnh tượng mà bản thân chư vị nhìn thấy mà nói, thì điều truyền đều không phải Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi! Chư vị tại tầng thứ của chư vị, Lý mà chư vị nhận thức được không phải là Pháp hoàn chỉnh; chúng tôi kết hợp Lý tại những tầng thứ rất cao mà giảng; cho nên thứ đó của chư vị không có tác dụng chỉ đạo. Chư vị chớ coi rằng chư vị thấy được gì, biết được gì; nó có vấn đề như thế. Hơn nữa trong quá trình truyền công chúng ta đều là tự nguyện, là làm việc tốt, tích công đức. Là người luyện công chư vị cầu điều gì? Không cầu danh lợi, phải vậy không? Điều chúng ta cầu là công đức, cho nên không cho phép bất kỳ ai thu phí, không cho phép bất kỳ ai áp dụng hình thức này của tôi truyền công. Mở hội tọa đàm, mọi người giao lưu với nhau tại điểm luyện công, có thể như thế. Bởi vì Pháp này thì chư vị không giảng nổi. Có người nói rằng tôi là giáo viên; đó là hai chuyện khác nhau. Pháp này là có nội hàm cực kỳ thâm sâu, tại tầng thứ khác nhau đều có tác dụng chỉ đạo khác nhau; chư vị hoàn toàn không cách nào giảng.


* * * * * * * * *

Giải đáp thắc mắc tại giảng Pháp ở Trịnh Châu

鄭州講法答疑

Giải đáp thắc mắc tại giảng Pháp ở Trịnh Châu

李洪志

Lý Hồng Chí

弟子:對於那種特別好動和很不聽話的孩子,我總是整天嘮叨打罵,這事值得嗎?

Đệ tử: Với những đứa trẻ đặc biệt hiếu động và rất không nghe lời, con thường làu bàu đánh mắng suốt ngày, chuyện này có đáng không?

師:我們教育孩子的方法是應該改進一下。你發現罵他也不行,打他也不行,你是應該改進一下方法。我告訴大家他也是個人,你別看他是你兒女,百年之後誰也不認識誰,你欠他的就得還!我說這個你可能不相信,有人就迷在這個常人中,他就執著這些!逼著孩子上大學,考大學。我告訴你,你欠他的可多了,將來反過來,他也當你的父親,也讓你來這麼一把。這是個方法問題,如果養子不教也是做壞事,也是欠他了。

Sư phụ: Phương pháp chúng ta giáo dục trẻ nhỏ nên cải tiến một chút. Chư vị phát hiện rằng mắng nó cũng không được [hiệu quả], đánh nó cũng không được, [vậy] chư vị nên cải tiến phương pháp một chút. Tôi bảo mọi người rằng nó cũng là người, chư vị đừng coi nó là con cái của chư vị, sau trăm tuổi [qua đời] chẳng ai biết ai, những gì chư vị nợ nó thì phải trả! Tôi nói điều này có thể chư vị không tin, có người cứ mê ở cõi người thường, họ cứ chấp trước những thứ này! Ép con cái học đại học, thi đại học. Tôi bảo chư vị này, chư vị nợ nó nhiều rồi, tương lai đổi lại, nó cũng sẽ làm cha của chư vị, cũng sẽ làm thế với chư vị. Đây là vấn đề phương pháp, nếu nuôi con mà không dạy thì cũng là làm việc xấu, cũng là nợ nó.

弟子:化身、報身是甚麼?

Đệ tử: Hóa thân, báo thân là gì?

師:我不給你講這個,是佛教中劃分的名詞。我這裏結合著人體科學講的,是講的最明白不過了。現在甚麼三魂七魄,這個那個的,我告訴你,他講的太籠統,籠統到甚麼成度?你的心肝、肺腑、大腦、腦子,你的每個血管、細胞都是你的形像。我不知道他指的是甚麼,甚麼三魂七魄指的是甚麼東西。你的前半身有你的形像,後半身有你的形像,你的手腳都是你的形像,你說他指的是甚麼?所以我覺的他們是籠統的,我們這裏說的最清楚了。

Sư phụ: Tôi không giảng cho chư vị điều này, đây là danh từ phân loại trong Phật giáo. Tại đây tôi kết hợp [thuật ngữ của] khoa học nhân thể mà giảng, giảng một cách minh bạch nhất không thể [minh bạch] hơn rồi. Hiện nay nào là ‘ba hồn bảy phách’, thứ này thứ kia, tôi bảo chư vị này, họ giảng quá chung chung, chung chung tới mức độ nào? Tâm can, phế tạng49, đại não, đầu óc, từng huyết quản, tế bào của chư vị đều là hình tượng của chư vị. Tôi không biết họ nói về cái gì, ba hồn bảy phách gì đó là chỉ thứ gì. Nửa thân trước của chư vị có hình tượng của chư vị, nửa thân sau có hình tượng của chư vị, chân tay của chư vị đều là hình tượng của chư vị, chư vị nói xem họ là nói về cái gì? Cho nên tôi cảm thấy họ [giảng] rất chung chung; chúng ta đây là nói rõ ràng nhất rồi.

弟子:我煉神通加持法時小腹部位有時一起一伏的動,像過去練別的氣功調息似的?

Đệ tử: Lúc con luyện Thần Thông Gia Trì Pháp, đôi khi chỗ bụng dưới động đậy lúc lên lúc xuống, giống như điều tức khi luyện khí công khác trước kia?

師:對。會這樣的,就這樣煉功不要管它,是一種狀態。大法初期調息也是自動的。

Sư phụ: Đúng vậy. Sẽ như vậy, cứ thế mà luyện công không cần để ý tới nó, [đây cũng] là một loại trạng thái. Đại Pháp trong thời kỳ đầu việc điều tức cũng là tự động.

弟子:煉功後一隻手發熱,一隻手發涼是怎麼回事?

Đệ tử: Sau khi luyện công một tay phát nhiệt, một tay lạị mát thì là chuyện gì?

師:這都是正常反應,在道家中講叫作甚麼陰陽分明,可能這邊熱了,那邊涼了;可能那邊熱了,這邊涼了,這都是正常狀態,各種狀態都會出現。

Sư phụ: Đây đều là những phản ứng bình thường, trong Đạo gia giảng gọi là ‘âm dương phân minh’ gì đó, có thể bên này nóng lên, bên kia lạnh đi; có thể bên kia nóng lên, bên này lạnh đi; đây đều là trạng thái bình thường, các chủng trạng thái đều sẽ xuất hiện.

弟子:煉法輪大法時,要求舌頂上顎,那麼滿口假牙,上顎被假牙隔住?

Đệ tử: Khi luyện Pháp Luân Đại Pháp, yêu cầu lưỡi đặt hàm trên, vậy [nếu] cả hàm đều là răng giả, hàm trên bị răng giả ngăn cách?

師:沒有關係,別說你假牙,安上鐵牙也沒有關係,鉛板也隔不住,我們煉的是能量。我在北京他們找我做試驗的時候,用手拿那個幾層鉛板封住的X光片,再用幾層黑紙包住,然後去沖洗出來,上面就有我的手印,手拿過的印。也就是說鉛板也隔不住能量的。不是練氣,練氣有怕這個怕那個的。有人說怕不怕風啊,十級大風你能站的住,你煉吧,啥也不丟的。能量是不丟的,氣才丟的。

Sư phụ: Không sao, đừng nói răng giả của chư vị, lắp răng sắt cũng không vấn đề gì, tấm chì cũng không ngăn được; điều chúng ta luyện là năng lượng. Khi tôi ở Bắc Kinh họ tìm tôi làm thí nghiệm, dùng tay giữ tấm phim X-quang được bọc kín bởi mấy lớp chì, lại dùng thêm vài lớp giấy đen bọc lại; sau đó rửa ảnh ra, trên bề mặt có dấu tay của tôi, dấu ấn để lại do tay từng cầm vào. Nên cũng nói tấm chì cũng không thể ngăn được năng lượng. Không phải luyện khí, luyện khí sợ thứ này sợ thứ kia. Có người nói có sợ gió hay không, gió lớn cấp 10 mà chư vị có thể đứng vững, thì chư vị cứ luyện, thứ gì cũng không mất. Năng lượng thì không mất đi, khí mới mất đi.

弟子:打坐時腿不疼不起作用嗎?

Đệ tử: Khi ngồi đả tọa chân không đau thì không khởi tác dụng phải không?

師:也不見得,我們這一門不是專門從這上消業。我們走的是在常人社會中魔煉你的心性。當然了,身體上也要承受一部份,這個問題我已經講過了,不是完全靠禪定修煉。

Sư phụ: Cũng không hẳn như vậy, môn này của chúng ta không phải chuyên tiêu nghiệp ở phương diện này. [Con đường] chúng ta đi là ma luyện tâm tính50 của chư vị trong xã hội người thường. Đương nhiên, về thân thể cũng phải gánh chịu một phần, vấn đề này tôi đã giảng rồi, không phải hoàn toàn dựa vào thiền định tu luyện.

弟子:六歲以下小孩無意中看到法輪章中的景象後,天目是否會開?

Đệ tử: Trẻ nhỏ dưới sáu tuổi sau khi vô tình nhìn thấy cảnh tượng trên huy hiệu Pháp Luân, có phải là thiên mục khai mở?

師:無意中看到,可他開了也不知道。小孩往往開天目之後,他自己不注意的,看到東西的時候,他認為好像大家都是這樣的,他很天真,他也不當回事。

Sư phụ: Vô tình nhìn thấy, nhưng có khai mở nó cũng không biết. Thông thường sau khi trẻ nhỏ khai thiên mục, bản thân nó không chú ý, khi nhìn thấy thứ gì đó, thì nó cho rằng hình như mọi người đều như vậy, nó rất hồn nhiên, nó cũng không coi đó là chuyện gì cả.

弟子:我的孩子學老師的法輪大法,接受老師的思想,沒有好好煉功,法輪還存在嗎?

Đệ tử: Con của con học Pháp Luân Đại Pháp của Thầy, tiếp nhận tư tưởng của Sư phụ, [nhưng] không chăm chỉ luyện công, vậy Pháp Luân còn tồn tại không?

師:沒有好好煉功,不按照法輪大法的要求去做,那還算甚麼接受我的思想,我們不是把法輪隨隨便便給一個常人的。不管大人小孩都得按照法輪大法的標準去做的。不過小孩天真,他一旦學了之後,你別看他表面上他沒有好好去煉,可是他的心性在變,法在他心裏面已經紮下了根了。

Sư phụ: Không chăm chỉ luyện công, không làm theo yêu cầu của Pháp Luân Đại Pháp, vậy sao tính là tiếp nhận tư tưởng của tôi; chúng tôi không phải là cấp cho người thường một cách tùy tùy tiện tiện. Dù là người lớn trẻ nhỏ đều cần làm theo tiêu chuẩn của Pháp Luân Đại Pháp. Nhưng trẻ con ngây thơ, một khi nó đã học rồi, thì chư vị chớ thấy trên bề mặt nó không chăm chỉ luyện, nhưng tâm tính của nó đang thay đổi, Pháp đã cắm rễ trong tâm nó rồi.

弟子:老師以後不辦班了,我們能見到師父嗎?

Đệ tử: Sau này Thầy không mở lớp nữa, chúng con có thể gặp được Sư phụ không?

師:不辦班了,我也不是甚麼深山老林出來的,我也不鑽進山。修的好天天能見到,你見不到我也在。

Sư phụ: [Dù] không mở lớp nữa, tôi cũng không phải đi ra từ núi sâu rừng già gì cả, tôi cũng không chui vào sơn động. Tu tốt thì hàng ngày có thể gặp được, chư vị không nhìn thấy thì tôi cũng vẫn ở đó.

弟子:我們煉到走出奶白體時會有體感功能嗎?

Đệ tử: Chúng con khi luyện qua khỏi nãi bạch thể thì còn có công năng thể cảm51 hay không?

師:我都講了,那不是功能。我們絕大多數人在這個學習班上,還沒等來的及體會那奶白體狀態就過去了。我實際上是把你拔起來,又推了你一程。這一段你自己煉,你得煉一生。我們在八天的時間給你做完了,那個層次突破的你還沒體察它已經過去了。

Sư phụ: Tôi đều giảng rồi, đó không phải là công năng. Tuyệt đại đa số mọi người chúng ta ở lớp học này, còn chưa kịp đợi thể hội được trạng thái nãi bạch thể thì [nó] đã qua đi rồi. Trên thực tế tôi đã nâng chư vị lên, lại đẩy chư vị đi một chặng đường. Đoạn này [mà để] chư vị tự luyện, chư vị phải luyện cả một đời. Trong thời gian tám ngày chúng tôi đã giúp chư vị làm xong, tầng thứ đó đột phá đến mức chư vị còn chưa cảm nhận được thì nó đã qua đi rồi.

弟子:我煉靜功時,我眼睛一閉想看到自身經絡運行景象,這與法輪大法有不妥?

Đệ tử: Khi con luyện tĩnh công, mắt con hễ nhắm lại là muốn nhìn cảnh tượng kinh lạc tự thân vận hành, cái này có phù hợp với Pháp Luân Đại Pháp hay không?

師:你看到了就是你天目開了,這是正常的。

Sư phụ: Chư vị nhìn thấy thì chính là thiên mục của chư vị khai mở rồi, đây là điều bình thường.

弟子:我和新生嬰兒在同一室,咱們的大法打出的法輪的能量和我身上的氣機對新生嬰兒天目有影響嗎?

Đệ tử: Con và em bé sơ sinh ở cùng một phòng, năng lượng của Pháp Luân do Đại Pháp chúng ta đả xuất ra và khí cơ trên thân của con có ảnh hưởng gì tới thiên mục của em bé sơ sinh hay không?

師:你不要執著於這些,小孩、新生嬰兒你隨其自然去吧。該得的就得,不該得的就不該得。小孩的天目一般都是開的。

Sư phụ: Chư vị không nên chấp trước vào những điều này, trẻ nhỏ, trẻ sơ sinh thì chư vị cứ để tùy kỳ tự nhiên. Đáng được đắc thì sẽ đắc, không đáng được đắc thì sẽ không đắc được. Thông thường thiên mục của trẻ nhỏ đều khai mở.

弟子:我馬上去香港,您的法身能保護弟子嗎?

Đệ tử: Con lập tức đi Hồng Kông, Pháp thân của Ngài có thể bảo hộ đệ tử không?

師:你去香港、你去美國,你跑到月球、太陽上去都沒關係,我的法身都能保護。但不要執著,我的法身是為了你修煉才管你的。

Sư phụ: Chư vị đi Hồng Kông, chư vị tới Mỹ quốc, chư vị lên Mặt Trăng, Mặt Trời cũng không hề gì, Pháp thân của tôi đều có thể bảo hộ. Nhưng không được chấp trước; Pháp thân của tôi là để chư vị tu luyện nên mới quản chư vị.

弟子:自古修仙修佛只有金丹大道一條路,與你說的主元神?

Đệ tử: Tự cổ [tới nay] tu Tiên tu Phật chỉ có một con đường là Kim Đan đại đạo, với chủ nguyên thần mà Ngài nói [có quan hệ gì]?

師:這是你知道的。甚麼金丹大道一條路,自古以來說的,那是常人說的。天上都知道我法輪大法是最好的法,當然還有其它修法,太奧妙了,人怎能了解呢?

Sư phụ: Đây là điều mà các vị biết [thôi]. Cái gì là một con đường Kim Đan đại đạo; từ cổ tới nay nói, đó là người thường nói vậy. Thiên thượng đều biết rằng Pháp Luân Đại Pháp của tôi là Pháp tốt nhất, đương nhiên còn có những pháp tu khác, quá đỗi ảo diệu, con người làm sao có thể lý giải được?

弟子:不論煉哪套功,腦子裏總像有許多氣血在交流,是法輪轉嗎,還是法輪調整大腦?

Đệ tử: Dù luyện bài công pháp nào, trong não cứ như thể có rất nhiều khí huyết chảy giao nhau, là Pháp Luân xoay chuyển phải không, hay là Pháp Luân điều chỉnh đại não?

師:煉功人他的身體出現各種狀態,數不勝數,成千上萬,不能一樣一樣說這些事情,說不過來,你想煉功你就把它視為好現象,不要管它了。你今天這個狀態明天那個狀態,只管當作好事,其實都是調整身體,但是你那個不穩的心理是甚麼?是不是執著?害怕心理那麼強,你能煉功嗎?你能過的去嗎?這不已經就是給自己設難嗎?出現的執著心怎麼往下消?可能說不定真正的讓你就在這個狀態中去這個心。

Sư phụ: Người luyện công thân thể họ xuất hiện đủ loại trạng thái, không đếm xuể, hàng nghìn hàng vạn, không thể từng dạng từng loại mà nói những chuyện này, nói không hết; chư vị muốn luyện công thì hãy nhìn nhận nó là hiện tượng tốt, không cần quản nó. Chư vị hôm nay trạng thái này ngày mai trạng thái khác, chỉ coi đó là chuyện tốt, kỳ thực đều là điểu chỉnh thân thể; nhưng tâm lý bất ổn đó của chư vị là gì? Là chấp trước phải không? Tâm lý sợ hãi mạnh như vậy, chư vị có thể luyện công chăng? Chư vị liệu có thể vượt qua? Điều này chẳng phải đã thành khó nạn cho tự mình hay sao? Tâm chấp trước xuất hiện thì tiêu trừ đi thế nào? Có thể nói không chừng sẽ thực sự khiến chư vị phải ở trong trạng thái đó mà tống khứ cái tâm này.

弟子:打坐中的五個手印有沒有名稱?

Đệ tử: Năm thủ ấn khi đả tọa có tên gọi không?

師:運動中的手印沒有固定名稱。

Sư phụ: Thủ ấn trong vận động không có tên gọi cố định.

弟子:大蓮花手印是手印之一還是五個手印的全稱?

Đệ tử: Thủ ấn Đại Liên Hoa là một trong những thủ ấn hay là tên gọi toàn bộ của năm thủ ấn?

師:大蓮花手印只是一個固定的手印。

Sư phụ: Thủ ấn Đại Liên Hoa chỉ là một thủ ấn cố định.

弟子:您的功力現在多高?你的講課內容親身經歷過嗎?

Đệ tử: Công lực của Ngài hiện nay cao bao nhiêu? Nội dung bài giảng của Ngài đã đích thân trải nghiệm qua hay chưa?

師:我經歷的太多了。我有一丈、十丈、百丈,我連一寸都沒有跟你說出來,不允許你們知道太多。真正的師父都沒有標榜自己的,我們這裏傳的就是這個法,你就照這個法去做。可是,我還告訴你,凡是真正修煉這法的人沒有出現問題的,你只管去修。過去我在貴州班上我講了一句話,人家問我說,老師您有多高?我說你只管去煉吧,我出山以後,我不出山以前也是一樣,沒有能動得了我的。就因為這一句話,當地有個三百多歲的人跟我鬥法,因為他那個妒嫉心嘛,後來他還是完了。你別看他修三百多歲,這個大法傳出來可不是鬧著玩的,誰敢隨便動也不行。他最後知道我是度人的了,但是已經晚了,法不容他。

Sư phụ: Tôi trải nghiệm quá nhiều rồi. Tôi có một trượng, mười trượng, trăm trượng, ngay cả một tấc tôi cũng không nói ra cho chư vị, không cho phép chư vị biết quá nhiều. Sư phụ chân chính đều không tự tâng bốc về mình; điều chúng tôi truyền đây chính là Pháp này, chư vị cứ chiểu theo Pháp này mà làm. Nhưng mà, tôi còn nói với chư vị rằng, phàm là người tu luyện Pháp này một cách chân chính sẽ không xuất hiện vấn đề, chư vị chỉ quản việc tu. Trước kia trên lớp ở Quý Châu tôi đã giảng một câu, người ta hỏi tôi, thưa Thầy ngài cao đến đâu? Tôi nói rằng chư vị chỉ quản việc luyện thôi, sau khi tôi ra công chúng, hay trước khi tôi ra công chúng cũng như vậy, không có ai có thể động tới tôi được. Chính bởi một câu này, mà địa phương đó có một người hơn 300 tuổi đã đấu pháp với tôi, vì tâm tật đố của ông ta mà, sau này ông ta cũng xong rồi. Chư vị chớ coi ông ta tu hơn 300 năm, Đại Pháp này truyền xuất ra không phải làm chuyện đùa, ai dám tùy tiện động vào cũng không được. Cuối cùng ông ta biết tôi là tới độ nhân, nhưng đã muộn rồi, Pháp không dung ông ta.

弟子:煉功打坐中有時感覺自己變大,有時變小?

Đệ tử: Trong luyện công đả tọa có lúc cảm thấy mình trở nên to lớn, có khi trở nên nhỏ bé?

師:這都是好事。人一旦煉功的時候,他的元神就有能量充實他,他就可以變化,擴張起來他就會感覺自己很大。可是你這個肉身並沒有發生變化,變化的是另外的身體,覺的自己很大。但是他又能縮小,變的很小,其實他都是正常的,我不願解釋這些現象。各種狀態多了,成千上萬還不止哪。

Sư phụ: Đây đều là chuyện tốt. Khi người ta hễ luyện công, nguyên thần của họ sẽ có năng lượng bổ sung cho nó, họ liền có thể biến hóa, khuyếch trương lên thì họ sẽ cảm thấy mình rất lớn. Nhưng nhục thân này của chư vị lại không hề phát sinh biến hóa, biến hóa là thân thể khác, cảm thấy bản thân rất lớn, nhưng họ cũng có thể thu nhỏ lại, biến thành rất nhỏ; kỳ thực đó đều là bình thường; tôi không muốn giải thích những hiện tượng này. Các chủng trạng thái nhiều lắm, hàng nghìn hàng vạn cũng không hết.

弟子:加持神通時全身發抖或部份發抖能否去煉功?

Đệ tử: Khi gia trì thần thông toàn thân phát run hoặc một phần [cơ thể] phát run có thể luyện công không?

師:如果抖的哆哆嗦嗦像害怕的時候,那可能是有甚麼附體的東西,它害怕。如果是正常的身體慢慢悠悠的抖動,可能是能量流衝脈衝的,但是不要隨著它去抖動。

Sư phụ: Nếu run cầm cập giống như khi hoảng sợ, thì có thể là có thứ phụ thể gì đó, nó sợ hãi; nếu là thân thể bình thường lắc động từ từ đều đều, có thể là dòng năng lượng đang xung mạch, nhưng không được lắc động theo nó.

弟子:有倆人過去跟老學員學法輪大法兩個月,現在煉神通加持法中有氣感,隨著出現各種動作?

Đệ tử: Có hai52 người trước kia theo học viên cũ học Pháp Luân Đại Pháp được hai tháng, hiện nay khi luyện Thần Thông Gia Trì Pháp có cảm giác về khí, thuận theo đó mà xuất hiện các loại động tác?

師:那就是魔的干擾,趕快把自發動作放下!人在靜中出現的只要不是法輪大法的動作,當然,我說的是真正修煉法輪大法的人,你要出的不是法輪大法的動作,你趕快把它放掉!大家看見我打大手印,想學,有的人覺的一做也出手印。我告訴你,說不定就是魔干擾你的,我的法身是絕不會教你這些的。特別摻煉別的功的,出現此情況一定是干擾。

Sư phụ: Đó chính là ma can nhiễu, hãy nhanh chóng bỏ những động tác tự phát! Người ta trong tĩnh mà xuất hiện ra những gì miễn là không phải động tác Pháp Luân Đại Pháp —đương nhiên, tôi là nói người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp một cách chân chính— nếu chư vị xuất ra không phải động tác của Pháp Luân Đại Pháp, thì chư vị hãy nhanh chóng bỏ nó đi! Mọi người thấy tôi đả đại thủ ấn, cũng muốn học, có người cảm thấy hễ làm thì cũng thành thủ ấn. Tôi bảo chư vị này, nói không chừng chính là ma can nhiễu chư vị, Pháp thân của tôi tuyệt đối không dạy chư vị những cái đó. Đặc biệt là luyện lẫn với công khác; xuất hiện tình huống này nhất định là can nhiễu.

弟子:從跟班以後,有隻耳朵轟的一聲,另一隻耳朵有氣往外衝,後來在睡覺時聽見音樂聲?

Đệ tử: Sau khi theo lớp học, một bên tai ầm một tiếng, tai kia có khí xung ra ngoài, sau này khi ngủ nghe thấy tiếng âm nhạc?

師:那就是天耳開了,就是天耳通,炸開了。

Sư phụ: Đó chính là thiên nhĩ đã khai mở, chính là thiên nhĩ thông, đã nổ khai rồi.

弟子:主元神和副元神都是身體的一部份,主元神總是要死的,就讓副元神修成不也可以嗎?

Đệ tử: Chủ nguyên thần và phó nguyên thần đều là một bộ phận của thân thể; chủ nguyên thần đằng nào rồi cũng chết, vậy để phó nguyên thần tu thành chẳng phải cũng được mà?

師:行啊,人家歷代就是這麼修的。但是你別煉我法輪大法,煉別的吧。你煉法輪大法你也得不到啊。因為我們這東西就是給主元神的,誰說主元神能死?主元神死不了。不過我說你也真夠大度的,自己死了,讓副元神修。我看這是有附體的寫的問題。

Sư phụ: Được thôi, xưa nay người ta chính là tu như vậy. Nhưng [nếu thế] chư vị đừng luyện Pháp Luân Đại Pháp của tôi, hãy luyện môn khác. Chư vị luyện Pháp Luân Đại Pháp chư vị cũng không đắc được. Bởi vì thứ này của chúng tôi là để ban cho chủ nguyên thần; là ai nói chủ nguyên thần có thể chết; chủ nguyên thần không chết được. Chẳng qua tôi nói chư vị cũng thật là ‘rộng lượng’, tự mình chết, để phó nguyên thần tu. [Kỳ thực] tôi thấy đây là câu hỏi do người có phụ thể viết.

弟子:聽老學員講全身到處都有法輪轉,我只感到小腹有一個,我也能有那麼多嗎?

Đệ tử: Nghe học viên cũ bảo toàn thân đâu đâu cũng có Pháp Luân xoay chuyển, con chỉ cảm thấy bụng dưới có một cái; con cũng có thể có nhiều như vậy không?

師:夠執著的。法輪多是我在調整他們的身體,給你們的只有一個。但是你們已經相當相當超常了。我告訴大家,你看到你們在聽法,還有許許多多你們看不見的人在這裏聽法。告訴你,他們開始都不相信大法的威力,我們這個功怎麼煉的這麼快。我的學員跟我坐火車一起走,一些山裏來的修道人他們看到之後簡直不可思議。他問我這些學員學了多少時間了,我說有的學半年,有的學一年。我說比你們如何?他們說,我們沒有幾個能趕上他們。可是他卻修了幾百年、上千年。你想我給了你甚麼,有人說坐那塊兒就想哭,你能不哭嗎?

Sư phụ: Chấp trước quá rồi. Pháp Luân mà nhiều là tôi đang điều chỉnh thân thể cho họ, còn cấp cho họ chỉ có một cái. Nhưng chư vị đã rất rất là siêu thường rồi. Tôi bảo mọi người này, chư vị thấy chư vị đang nghe Pháp [ở đây], còn có rất nhiều rất nhiều người mà chư vị nhìn không thấy đang ở đây nghe Pháp. [Tôi] nói chư vị này, ban đầu họ đều không tin vào uy lực của Đại Pháp, công này của chúng tôi lẽ nào luyện nhanh như vậy. Học viên của tôi ngồi xe lửa cùng tôi, một số người tu Đạo từ trong núi đến sau khi họ nhìn thấy thì quả thực là không thể tưởng tượng được. Họ hỏi tôi những học viên này học bao lâu rồi, tôi nói có người học nửa năm, có người học một năm. Tôi nói so với các ông thì thế nào? Họ nói rằng, chúng tôi không có mấy người có thể đuổi kịp bọn họ. Nhưng họ lại tu mấy trăm năm, trên nghìn năm. Chư vị nghĩ xem tôi cấp cho chư vị những gì, có người [tu Đạo] nói ngồi đó liền muốn khóc, các vị có thể không khóc sao?

弟子:在煉神通加持法盤坐時一開始腿很疼,修到甚麼時候腿不疼?

Đệ tử: Khi ngồi xếp bằng luyện Thần Thông Gia Trì Pháp hễ bắt đầu là chân rất đau, tu tới khi nào thì chân mới không đau?

師:修到你的業都沒了。

Sư phụ: Tu tới khi nghiệp của chư vị không còn nữa.

弟子:師父給我們下的法輪在小腹部沒有感覺,是不是要多參加幾次學習班才能下好?

Đệ tử: Pháp Luân mà Sư phụ cài cho chúng con ở chỗ bụng dưới không có cảm giác, có phải là phải tham gia mấy lần lớp học nữa mới có thể cài xong không?

師:有的人就是沒有感覺,有的人特別敏感,就是不一樣。有感覺也好,沒有感覺也好,只要真正修煉法輪大法的人,是人人落不下。你的認識是不對的,自學的真正去修煉都能得到,也不存在下的好不好這種認識。

Sư phụ: Có người chính là không có cảm giác, có người đặc biệt mẫn cảm, là không giống nhau. Có cảm giác cũng vậy, không có cảm giác cũng vậy, miễn là người chân chính tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thì không bỏ sót ai. Nhận thức của chư vị không đúng, những người tự học mà chân chính tu luyện thì đều có thể đắc được, cũng không tồn tại kiểu nhận thức là cài xong hay không [xong].

弟子:只參加您一個班的學員與多次參加班的學員得的東西是不是一樣?

Đệ tử: Thứ mà học viên chỉ tham gia một lớp học của Ngài và học viên nhiều lần tham gia lớp học đắc được có như nhau không?

師:一樣,一點都不會多給甚麼的。我們很多學員多次跟班不是來得東西的,左一次跟班右一次跟班的。是因為我每次講的他們都有新的認識,人家是來學法、聽法的,他們知道這個法珍貴,不是來得東西的。跟一次得一點、跟一次得一點,說句笑話,這心可夠貪的啊。

Sư phụ: Như nhau, một chút cũng sẽ không cấp thêm. Rất nhiều học viên chúng ta tham gia lớp học nhiều lần không phải là để tới đắc được gì, theo học hết lớp này lớp nọ. Là vì mỗi lần tôi giảng họ đều có được nhận thức mới, người ta là tới học Pháp, nghe Pháp, họ biết Pháp này trân quý; chứ không phải tới để đắc được thứ gì. [Lối nghĩ] theo [lớp] thêm một lần đắc thêm một chút, theo thêm một lần đắc thêm một chút, nói vui thế này, tâm đó cũng tham quá rồi.

弟子:孩子開天目了怎麼保護?

Đệ tử: Trẻ con khai mở thiên mục rồi thì bảo hộ thế nào?

師:我們法輪大法的學員,或者是我們學員中的小學員,或者是你帶的孩子也得了法輪了,或者開了天目了,出外面不要跟不修煉的人隨便講,也不要跟學校的同學、老師隨便講,不然你那孩子就不得安寧。

Sư phụ: Học viên Pháp Luân Đại Pháp chúng ta, hoặc tiểu học viên trong học viên chúng ta, hoặc con mà chư vị mang theo cũng đã đắc được Pháp Luân rồi, hoặc đã khai thiên mục rồi, [thì] ra ngoài thì không được tùy tiện nói với những người không tu luyện, cũng không được tùy tiện nói với các bạn học, thầy cô giáo trong trường, nếu không con của chư vị sẽ không được yên thân.

弟子:在這樣一個世界中待過的人,心靈能一點痕跡不留下,恢復到最初的純潔無瑕嗎?

Đệ tử: Những người đã từng ở thế giới như thế này, tâm linh có thể không lưu lại một chút tỳ vết nào, khôi phục lại sự thuần khiết không tỳ vết như thuở ban đầu được chăng?

師:能,而且能夠超過你原來。當然你要想在常人中一下修的那麼純潔,靠你自己的力量還是不行的。在最後那一瞬間的時候,把你殘留的任何東西、不好的物質全部去掉。那個情是物質存在,因為你自己得去修它,從你思想上改變你自己,讓它不再產生。但最後存留下的一點東西都給你去掉,那個時候你就純淨的非常純淨了。修就是修人的思想,從思想上變過來,你的思想純淨到甚麼成度,那就是果位。在圓滿後,你的思想完全是圓滿那一層思維方法了,不再有人的思維方法了。

Sư phụ: Có thể, hơn nữa còn có thể vượt qua chư vị nguyên lai [ban đầu]. Đương nhiên chư vị muốn tại người thường lập tức tu được thuần khiết đến vậy, nếu chỉ dựa vào lực lượng tự thân chư vị thì không được đâu. Tại tích tắc cuối cùng, bất cứ thứ tàn tích gì của chư vị, toàn bộ những vật chất bất hảo đều được trừ bỏ. Cái ‘tình’ kia là tồn tại vật chất, bởi vì tự chư vị phải tu nó [đi], từ tư tưởng của chư vị mà cải biến bản thân chư vị, khiến nó không thể tiếp tục sản sinh. Một chút thứ kia còn lưu lại đến cuối cùng đều trừ bỏ đi cho chư vị, lúc đó chư vị sẽ thuần tịnh tới mức vô cùng thuần tịnh. Tu chính là tu tư tưởng của con người, từ tư tưởng mà thay đổi, tư tưởng của chư vị thuần tịnh tới mức độ nào, thì đó chính là quả vị. Sau khi viên mãn, tư tưởng của chư vị hoàn toàn đều là phương pháp tư duy tại tầng thứ viên mãn đó, không còn phương pháp tư duy của con người nữa.

弟子:主元神最後進入哪個身體?另一個身體處於甚麼狀態?

Đệ tử: Chủ nguyên thần cuối cùng tiến nhập vào thân thể nào? Cái thân thể kia là thuộc vào trạng thái nào?

師:主元神進入哪個身體?你修的那個身體都是你的。另外空間的身體本來就是一體,都是你的一體。當你的肉身被高能量物質轉化以後,就不存在另外空間身體之說了。

Sư phụ: Chủ nguyên thần tiến nhập vào thân thể nào? Thân thể mà chư vị tu được đó đều là chư vị. Thân thể ở không gian khác vốn dĩ chính là nhất thể, đều là nhất thể của chư vị. Đương nhiên nhục thân của chư vị sau khi được vật chất cao năng lượng chuyển hóa, sẽ không tồn tại thuyết về thân thể tại không gian khác nữa.

弟子:剛走進少林寺大雄寶殿,小腹部位法輪急速倒轉?

Đệ tử: Khi vừa bước vào Đại Hùng Bảo điện ở Thiếu Lâm tự, Pháp Luân tại vị trí bụng dưới cấp tốc xoay ngược lại?

師:正轉、倒轉都是正常的。不錯的一個地方,很好的一個寺院。當然現在那個修煉的和尚如何我們不講,我們講的是寺院是個很好的寺院。

Sư phụ: Xoay xuôi, xoay ngược đều là bình thường. Một nơi khá tốt, một ngôi chùa rất tốt. Đương nhiên hiện nay những hòa thượng tu luyện kia thì chúng ta không nói, điều chúng ta nói là ngôi chùa là một ngôi chùa rất tốt.

弟子:做兩側抱輪時總出現耳鳴?

Đệ tử: Khi làm [động tác] lưỡng trắc bão luân cứ luôn xuất hiện [hiện tượng] ù tai?

師:對。兩側抱輪能夠打開人的耳朵。有人想,那好哇,我就天天煉這個吧。這是執著心!我就不願意給新學員講這些事情,最容易產生對那東西的執著,一執著就會被阻住。

Sư phụ: Đúng vậy. Lưỡng trắc bão luân có thể đả khai tai của con người. Có người nghĩ, vậy thì tốt, tôi bèn luyện cái này hàng ngày. Đó là tâm chấp trước! Tôi chính là không muốn giảng những chuyện này cho học viên mới, rất dễ nảy sinh chấp trước vào những thứ đó, hễ chấp trước là sẽ bị ngăn trở.

弟子:我在未煉法輪大法以前在夢中看到自己上天、在天上飛;入地,我看到了,是否我的副元神?

Đệ tử: Trước khi luyện Pháp Luân Đại Pháp con nằm mơ thấy mình lên trời, bay lượn trên trời; chui xuống đất, con cũng nhìn thấy, là phó nguyên thần của con phải không?

師:不是。你如果你的意識在天上飛,那就是你主元神離體。你的意識在哪兒,你自己就在哪兒。說我看見了我在天上飛,我在這兒坐著,那就是副意識在飛。

Sư phụ: Không phải. Nếu ý thức của chư vị đang bay trên trời, thì đó chính là chủ nguyên thần của chư vị ly thể53. Ý thức của chư vị ở đâu, thì bản thân chư vị ở đó. Nói rằng tôi nhìn thấy tôi đang bay trên trời, [mà] tôi đang ngồi nơi đây, thì đó chính là phó ý thức đang bay.

弟子:我煉靜功半小時後,當時全身發緊,想使勁,然後又抱成一團拼命的煉功,咋回事?

Đệ tử: Sau khi con luyện tĩnh công được nửa tiếng, lúc đó toàn thân cảm thấy căng thẳng, muốn gắng sức, sau đó bao thành một khối liều mạng luyện công, là chuyện gì?

師:你不用管它,與你以前的那個生命體有關係。你不要管了,只管煉。

Sư phụ: Chư vị không cần quản nó, [nó] liên quan đến thể sinh mệnh trước kia của chư vị. Chư vị không cần quản, chỉ quản việc luyện thôi.

弟子:電焊工在工作時與煙塵、電弧光打交道,它們對身體有沒有影響?

Đệ tử: Thợ hàn trong khi làm việc tiếp xúc với khói bụi, hồ quang điện, chúng có ảnh hưởng tới thân thể không?

師:對煉功人沒有關係。

Sư phụ: Không quan hệ gì với người luyện công.

弟子:第一天煉功,感到一圓形物由外入腹然後慢慢放到臍部,問是不是老師下的法輪?

Đệ tử: Ngày đầu tiên luyện công, cảm thấy một vật hình tròn từ ngoài nhập vào trong bụng sau đó dần dần đặt vào chỗ rốn, hỏi có phải là Pháp Luân do Sư phụ cài không?

師:煉功人不要管這些事情了。各種狀態我不能解釋,不要增加執著心。

Sư phụ: Người luyện công không nên quản những chuyện này. Các loại trạng thái tôi không thể giải thích, đừng gia tăng tâm chấp trước.

弟子:我買了一本某氣功師的掛曆和一本書,能不能和老師像在一個屋裏掛和看?

Đệ tử: Con mua một cuốn lịch treo tường và một cuốn sách của một vị khí công sư, có thể treo cùng phòng với ảnh Sư phụ và xem hay không?

師:不能,修就得專一。就是真正的氣功師,很不錯的氣功師,我告訴你,他也沒能力排除那些邪魔歪道的東西,他就得遷就它們,所以有些功中就帶有這個東西。雖然他本人是修正道的,可是他沒有辦法,管理不了他傳出去的東西。

Sư phụ: Không thể, tu thì phải chuyên nhất. Dù là khí công sư chân chính, là khí công sư rất tốt, tôi bảo chư vị này, họ cũng không có năng lực bài trừ những thứ tà ma oai đạo đó, họ cũng phải thích nghi với chúng, cho nên một số [người] trong công đã mang theo những thứ này. Đành rằng bản thân họ tu chính đạo, nhưng họ không có cách nào, cũng không quản lý nổi những gì họ truyền ra.

弟子:長期在船上工作的人修煉法輪大法能否達到同樣的效果?

Đệ tử: Người trường kỳ công tác trên thuyền thì tu luyện Pháp Luân Đại Pháp có thể đạt được hiệu quả như nhau không?

師:一樣。在海上煉功是一樣的,在江上煉功也是一樣的。

Sư phụ: Như nhau. Luyện công trên biển cũng như nhau, luyện công trên sông cũng như nhau.

弟子:煉功人吃飯是不是可以湊合著吃飽了,有勁就可以了?

Đệ tử: Người luyện công ăn cơm phải chăng có thể ăn cho gần no thôi, có sức là được rồi?

師:湊合吃?湊合著還是吃飽了。吃飯就吃飽了?還留點幹甚麼?要是困難時期少吃點那沒有關係。你的身體還在世間法中煉,還需要用世間法中的東西供給營養,不然的話,這個身體不就完了嗎?你沒有被高能量物質代替之前,你不吃飯能行嗎?吃好的心裏不執著也沒問題。

Sư phụ: Ăn gần no? Ăn gần no hay là ăn no. Ăn cơm thì chẳng phải nên ăn no sao? Còn để chừa một chút làm gì? Nếu là thời kỳ khó khăn ăn ít một chút cũng không sao. Thân thể chư vị còn đang luyện trong thế gian Pháp, còn cần dùng những thứ trong thế gian Pháp cung cấp dinh dưỡng, nếu không, thì thân thể này chẳng phải xong rồi sao? Trước khi chư vị được vật chất cao năng lượng thay thế, chư vị không ăn cơm có được không? Cứ ăn thôi mà trong tâm không chấp trước thì cũng không vấn đề gì.

弟子:學法輪大法的可以養小動物嗎?

Đệ tử: Học Pháp Luân Đại Pháp có thể nuôi động vật nhỏ không?

師:佛家講不殺不養,可能道家也是這樣講的。但是道家也有一部份有靈物,甚麼養龜呀,但是,極高層次上也收一個、兩個護法,那得挑極其好的。因為這些東西隨著你煉功,層次提高的時候,它容易得靈氣,一得靈氣,它可不講心性,做壞事,就會成魔。

Sư phụ: Phật gia giảng ‘bất sát bất dưỡng’54, có thể Đạo gia cũng giảng như vậy. Nhưng Đạo gia cũng có một bộ phận có linh vật, như là nuôi rùa, nhưng mà, tại tầng cực cao cũng thu nạp một, hai hộ pháp, vậy thì phải chọn ra [con nào] cực kỳ tốt. Bởi vì những thứ này thuận theo chư vị luyện công, khi tầng thứ đề cao, nó rất dễ đắc linh khí, hễ đắc được linh khí, nó có thể không chú trọng tâm tính, làm chuyện xấu, thì sẽ thành ma.

弟子:我一到晚上一個人閉著眼睛煉功時,知道四周很靜就會覺的很害怕?

Đệ tử: Hễ đến tối khi con một mình nhắm mắt luyện công, biết xung quanh rất tĩnh bèn cảm thấy rất sợ hãi?

師:跟大家說,我們法輪大法現在是各個空間哪兒都知道。法輪大法在常人社會中傳,有許多各種亂七八糟、各種空間的東西也想看一看,所以它長的奇形怪狀的、甚麼樣的都有。你在那煉功它來看你,你就覺的害怕,毛骨悚然的,可是你記住了有我的法身在,誰也傷不了你,它只是想看一看。為甚麼會毛骨悚然啦?就是因為你的副元神看見了覺的挺害怕,其實甚麼關係也沒有。

Sư phụ: [Tôi] nói với mọi người, Pháp Luân Đại Pháp của chúng ta hiện nay tại các tầng không gian nơi đâu cũng [được] biết đến. Pháp Luân Đại Pháp truyền trong xã hội người thường, có rất nhiều thứ loạn bát nháo, những thứ tại các loại không gian cũng muốn xem một chút, cho nên chúng có hình thù kỳ quái, kiểu gì cũng có. Chư vị luyện công tại đó nó tới xem chư vị, chư vị bèn cảm thấy sợ hãi, sởn cả tóc gáy, nhưng chư vị hãy nhớ kỹ rằng có Pháp thân của tôi ở đó, không ai hại nổi chư vị, nó chỉ là muốn xem một chút. Vì sao sởn tóc gáy, chính là phó nguyên thần của chư vị nhìn thấy rồi nên cảm thấy sợ lắm, kỳ thực không hề gì.

弟子:法輪世界是怎樣的?

Đệ tử: Thế giới Pháp Luân là như thế nào?

師:你聽說過有極樂世界嗎?法輪世界更美。

Sư phụ: Chư vị từng nghe nói có thế giới Cực Lạc chăng? Thế giới Pháp Luân còn đẹp hơn.

弟子:如果知道自己親人中有業報關係,如何相處?如何還報?如何報恩?

Đệ tử: Nếu biết được quan hệ nghiệp báo trong những người thân của mình, thì sống với nhau thế nào? Báo trả thế nào? Báo ân ra sao?

師:無論如何你也不會知道的。常人這些事情也不允許別人知道的。修煉人圓滿才會知道。但你已經不再執著這些了,人各有命,隨緣吧。

Sư phụ: Dù thế nào thì chư vị cũng sẽ không biết đâu. Những sự tình ấy nơi người thường cũng không cho phép người khác biết. Người tu luyện viên mãn mới có thể biết. Nhưng chư vị đã không còn chấp trước những thứ đó nữa, người nào có mệnh của người đó, hãy tùy duyên.

弟子:如何關心照顧殘疾人?

Đệ tử: Quan tâm chăm sóc người tàn tật như thế nào?

師:常人中的事你還來問我幹甚麼呀?你如何照顧你父母也要問我嗎?如何看孩子也要問我嗎?都是常人中的事情。我這是在講法,往高層次中修煉的事情。但是殘疾人太舒服了,就還不了業。下一世可能還會殘疾。

Sư phụ: Chuyện nơi người thường chư vị còn tới hỏi tôi làm gì? Chư vị chăm sóc cha mẹ chư vị thế nào cũng cần hỏi tôi sao? Trông coi con cái ra sao cũng cần hỏi tôi ư? Đều là các việc nơi người thường. Tôi đây là đang giảng Pháp, [giảng] những việc tu luyện lên tầng thứ cao. Nhưng người tàn tật mà dễ chịu quá, thì không thể trả nổi nghiệp. Đời sau có thể vẫn còn bị tàn tật.

弟子:上級指令不對時如何對待?

Đệ tử: Khi cấp trên chỉ thị không đúng thì đối đãi thế nào?

師:這都是常人中的事情。作為煉功人怎麼做,按照法的要求去做。任何事情都可能存在著因緣關係。你覺的不對了,可能說不定就是對的。他是領導,人家告訴你怎麼做你就做好。當然叫你殺人放火,叫你幹壞事,你當然不幹。原則問題是不行,但是我們講的原則問題的標準可不一樣。

Sư phụ: Đây đều là những chuyện nơi người thường. Là người luyện công làm thế nào, chiểu theo yêu cầu của Pháp mà làm. Bất kể sự tình gì đều có thể tồn tại quan hệ nhân duyên. Chư vị cảm thấy không đúng, nhưng nói không chừng lại là đúng. Họ là lãnh đạo, người ta bảo chư vị làm thế nào thì chư vị hãy làm cho tốt. Đương nhiên bảo chư vị sát nhân phóng hỏa, bảo chư vị làm việc xấu, thì chư vị đương nhiên không làm. Vấn đề về nguyên tắc là không được; nhưng tiêu chuẩn cho những vấn đề nguyên tắc mà chúng ta giảng lại không giống nhau.

弟子:煉功人無意做了錯事,老師的法身知不知道?會不會懲罰他?

Đệ tử: Người luyện công vô ý làm chuyện sai trái, Pháp thân của Thầy có biết không? Có trừng phạt người đó không?

師:當然會知道。如果你修的很好,當時就會點化你,也可能現事現報,把做錯事而產生的業還掉。如果你修的不好可能不懲罰你,一看你也不行呀,你老是這個式的,也不能讓它總是出現現事現報,出現一次報你一次,出現一次報你一次,這麼提高你悟性那還了得嘛,也不允許這麼幹的。

Sư phụ: Đương nhiên sẽ biết. Nếu chư vị tu rất tốt, lúc đó sẽ điểm hóa55 chư vị, cũng có thể sẽ hiện thế hiện báo56, hoàn trả hết nghiệp do làm việc sai trái mà sinh ra. Nếu chư vị tu không tốt có thể không trừng phạt chư vị, hễ thấy chư vị không được nữa, chư vị cứ mãi kiểu đó, thì cũng không thể khiến nó cứ xuất hiện hiện thế hiện báo [mãi được], xuất hiện một lần báo [ứng] chư vị một lần, xuất hiện một lần lại báo [ứng] chư vị một lần, như thế đề cao ngộ tính của chư vị sao được, cũng không cho phép làm vậy.

弟子:如何為我們顯現一下您的法輪和法身?

Đệ tử: [Sư phụ] hiển hiện một chút Pháp Luân và Pháp thân của Ngài cho chúng con có được không?

師:你還要看甚麼?!那是叫常人看的嗎?!你的心發出這麼不好的執著心,能看見佛的人已經是有果位的人啦。像煉功人提的問題嗎?都看見了悟就不存在了,也不允許修了,你修不了還要毀掉這麼多人嗎?

Sư phụ: Chư vị còn muốn thấy những gì?! Đó là để người thường thấy được sao?! Tâm chư vị phát xuất ra tâm chấp trước bất hảo như vậy; người mà có thể nhìn thấy Phật đã là người có quả vị rồi. [Đây] có giống câu hỏi mà người luyện công nêu ra không? Đều nhìn thấy cả rồi thì cũng không tồn tại ngộ nữa, cũng không cho phép tu nữa, chư vị không tu nổi còn muốn hủy đi bao nhiêu người như vậy sao?

弟子:煉神通加持法時有時頭動?

Đệ tử: Lúc luyện Thần Thông Gia Trì Pháp đôi khi đầu [lắc] động?

師:不能動,就是不能動,要自然放鬆。

Sư phụ: Không được động, chính là không được động, phải thả lỏng tự nhiên.

弟子:我們煉功場常常有燒樹葉毒煙裊繞是否停止煉功?

Đệ tử: Trường luyện công57 của chúng con thường thường có khói độc quấn quít do đốt lá cây thì có dừng luyện công không?

師:公園裏掃樹葉把它燒掉,這個不影響你煉功,實在太嗆了你就停一停或換個地方,其它的我說沒有問題。

Sư phụ: Trong công viên quét lá cây rồi đốt nó đi, cái này không ảnh hưởng chư vị luyện công; nếu quả thực ngạt quá thì chư vị dừng lại một chút hoặc đổi chỗ khác, nếu không thì tôi nói rằng không sao cả.

弟子:日常物品被破壞是造業同時損德,還是只造業不損德?

Đệ tử: Đồ dùng hàng ngày bị hỏng là tạo nghiệp đồng thời tổn đức, hay chỉ là tạo nghiệp mà không tổn đức?

師:釋迦牟尼講過萬物皆有靈,其實我們看在另外空間裏任何東西都是活的。如果你這個天目達到法眼通的時候,你出門、一開門你就會看到連石頭、牆都會跟你說話、跟你打招呼。但是我告訴你要著眼於大處,堂堂正正的修煉不要執著於這些小事,人有人的生存方式。一個真正修大法的人一天可以消去很多的業。所以業力對修大法的人來說就不那麼可怕了。

Sư phụ: Thích Ca Mâu Ni từng giảng vạn vật đều có linh58, kỳ thực chúng tôi thấy tại không gian khác bất kể thứ gì đều là sống. Nếu khi thiên mục của chư vị đạt đến Pháp nhãn thông, chư vị ra ngoài, hễ mở cửa chư vị liền thấy ngay cả đá, tường đều sẽ nói chuyện với chư vị, chào hỏi chư vị. Nhưng tôi bảo với chư vị cần để mắt tới chuyện lớn, đường đường chính chính mà tu luyện, đừng chấp trước những chuyện nhỏ nhặt này; con người có phương thức sinh tồn của con người. Một người tu luyện Đại Pháp chân chính một ngày có thể tiêu đi rất nhiều nghiệp. Cho nên nghiệp lực đối với người tu Đại Pháp mà nói thì không đáng sợ như vậy nữa.

弟子:單手沖灌時有的人肩和手一起上下沖動,整個身體隨著沖動起來?

Đệ tử: Lúc đơn thủ xung quán có người vai và tay cùng xung động lên xuống, toàn bộ thân thể đều xung động theo?

師:這是不對的。肩和身體放鬆不動。

Sư phụ: Như vậy thì không đúng. Vai và thân thể thả lỏng bất động.

弟子:家中有人練附體的功,勸他,他不聽怎麼辦?

Đệ tử: Trong nhà có người luyện công phụ thể, khuyên anh ấy, anh ấy không nghe thì làm thế nào?

師:隨其自然,你想主宰誰的思想也主宰不了的,只能勸善。只能勸善,不聽就算。師父會給真修弟子清理環境的。不叫其亂七八糟的東西帶進門。

Sư phụ: Tùy kỳ tự nhiên, chư vị muốn làm chủ tư tưởng của ai đó thì cũng không thể làm chủ được, chỉ có thể khuyến thiện. Chỉ có thể khuyến thiện, không nghe thì thôi. Sư phụ sẽ thanh lý hoàn cảnh cho đệ tử chân tu. Không để họ mang những thứ loạn bát nháo vào nhà.

弟子:友誼贈送?

Đệ tử: Biếu tặng [quà] hữu nghị59 [nên đối đãi ra sao]?

師:友誼贈送那個沒有關係,倆個人好給你點東西是自願的,那有甚麼關係呀。

Sư phụ: Biếu tặng hữu nghị cái đó không hề gì, hai người [quan hệ] tốt tặng chư vị ít đồ một cách tự nguyện, vậy thì có hề gì đâu.

弟子:在心裏忍不住罵人、罵自己也失德嗎?

Đệ tử: Trong tâm không nhẫn được mà mắng chửi người, [hoặc] mắng chửi mình cũng mất đức sao?

師:你罵自己給誰失德,給你自己失德啊?但是作為煉功人你不能罵人,罵你自己也是你動了氣了,那麼就是你沒有忍住,是不是?我們講忍,對小孩子、對自己的孩子也不應該隨意打罵。你管孩子是正當的,小孩子不教育也不行,得教育。教育是個方法的問題,但是你為了管孩子把自己氣的夠嗆,那哪行?管孩子也不能動氣的,你不要真動氣。

Sư phụ: Chư vị mắng chửi bản thân thì mất đức cho ai, mất đức cho bản thân chư vị ư? Nhưng là người luyện công chư vị không được mắng chửi người, [mà] mắng chửi bản thân chư vị cũng là chư vị đã nổi giận rồi, vậy nghĩa là chư vị chưa nhẫn được, phải vậy không? Chúng ta giảng Nhẫn, với trẻ nhỏ, với con cái của mình cũng không nên tùy ý đánh mắng. Chư vị quản con cái là việc chính đáng, trẻ nhỏ không giáo dục cũng không được, phải giáo dục [chúng]. Giáo dục là vấn đề về phương pháp, nhưng chư vị vì quản con cái mà khiến mình tức không chịu nổi, vậy đâu có được? Quản con cái cũng không được nổi giận, chư vị không được thực sự nổi giận.

弟子:五六歲的小孩跟我煉功,但他不知法也能往上修嗎?

Đệ tử: Trẻ nhỏ 5, 6 tuổi luyện công cùng con, nhưng nó không biết Pháp cũng có thể tu lên hay không?

師:那就給小孩講一講怎麼當好人,像講故事一樣,說老師怎麼怎麼講的就可以呀。我告訴你說,我們有的小孩在這場裏聽的可明白了,你別以為他聽的不如你。

Sư phụ: Vậy thì giảng cho trẻ nhỏ làm người tốt thế nào, tựa như kể chuyện, nói Sư phụ giảng thế này thế này là được. Tôi nói với chư vị này, chúng ta có trẻ em trong hội trường này nghe lại rất hiểu, chư vị đừng tưởng rằng chúng nghe không bằng chư vị.

弟子:我們修煉人還能從佛教道教書中吸取東西嗎?

Đệ tử: Người tu luyện chúng ta còn có thể thu lượm những thứ trong sách Phật giáo, Đạo giáo không?

師:絕對不允許,絕對的不允許!那不就亂了套嗎?竄了門了嗎?要不二法門嘛。當然你說你不煉法輪大法,用法輪大法這個法指導我練其它功,當然我講出的這個法對所有的功都有指導作用,都得這樣去重心性修煉的。

Sư phụ: Tuyệt đối không được phép, tuyệt đối không được phép! Đó chẳng phải loạn cả lên rồi sao? Soán môn60 rồi hay sao? Phải ‘bất nhị pháp môn’61 mà. Đương nhiên chư vị [có lẽ là] nói rằng chư vị không luyện Pháp Luân Đại Pháp, rằng [tôi] dùng Pháp này của Pháp Luân Đại Pháp để chỉ đạo tôi luyện công khác; đương nhiên Pháp này tôi giảng ra đối với tất cả các công [pháp] đều có tác dụng chỉ đạo, đều phải chú trọng tâm tính mà tu luyện.

弟子:學習法輪大法的理後應該以甚麼樣的心態生活?

Đệ tử: Sau khi học tập Lý của Pháp Luân Đại Pháp nên sống với tâm thái như thế nào?

師:各種文體活動,常人中的事情你願意參加你就參加,不影響功。隨著你煉功不斷深入的時候,這些事情你都會自己看淡,因為修到更高層次時這些也是執著。可是現在我們不能叫你一下都放下,都放下你今天就是佛了,現在你也放不下。人哪,就是因為有情,才有常人的愛好。

Sư phụ: Các loại hoạt động văn thể62, những việc [kia] nơi người thường chư vị muốn tham gia thì chư vị tham gia, không ảnh hưởng tới công. Thuận theo việc chư vị luyện công không ngừng thâm nhập, những việc kia chư vị đều sẽ tự mình xem nhẹ, bởi vì khi tu tới tầng càng cao thì những thứ kia cũng là chấp trước. Nhưng hiện nay chúng tôi không thể bảo chư vị ngay lập tức đều buông bỏ hết, đều buông bỏ hết thì hôm nay chư vị đã là Phật rồi, hiện giờ chư vị cũng buông không nổi. Con người, chính là vì có ‘tình’, mới có những sở thích của người thường.

弟子:我煉功時在法輪大法音樂中同時聽到一種有節奏的金鈴聲,這是甚麼?是否是副意識在起作用?

Đệ tử: Khi luyện công đồng thời trong nhạc Pháp Luân Đại Pháp con nghe thấy tiếng chuông vàng mang tiết tấu, đây là gì? Là phó ý thức đang khởi tác dụng phải không?

師:不是。就是另外空間的聲音,多的是,不用管它。

Sư phụ: Không phải. Chính là âm thanh của không gian khác, có rất nhiều, không cần để ý chúng.

弟子:在煉功時加入了觀想可以嗎?或以一脈帶百脈協助入靜?

Đệ tử: Khi luyện công thêm vào quán tưởng có được không? Hoặc dựa vào nhất mạch đới bách mạch để hỗ trợ nhập tĩnh?

師:沒有意念,我們是直接在高層次修煉,儘量放下一切有為的意念。你還想加進甚麼東西?亂來嘛,可不允許你把我們這套東西弄亂的。你要加,法輪會變形的。我們講百脈同時通,不搞甚麼一脈帶百脈。

Sư phụ: Không có ý niệm, chúng ta là trực tiếp tu luyện tại cao tầng, gắng hết mức buông bỏ hết thảy những ý niệm hữu vi. Chư vị còn muốn thêm vào những gì? Loạn lên mà; cũng không thể cho phép chư vị làm loạn bộ các thứ này của chúng tôi. Nếu chư vị thêm vào, Pháp Luân sẽ biến dạng. Chúng ta giảng bách mạch đồng thời thông, không làm cái gì là nhất mạch đới bách mạch63.

弟子:世人修煉的目地只是為自己當覺者而不顧別人,是甚麼樣的人?

Đệ tử: Nếu mục đích tu luyện của một người thế gian chỉ là để bản thân làm Giác Giả chứ không quan tâm tới người khác, thì đó là người như thế nào?

師:佛能度人,但是佛不是為了度人而產生的,你以為佛就應該度你嗎?達到自身解脫,羅漢就是這樣修成的。假如你要想有這個普度眾生的願望,那麼你還得接著往上修,你得到了那個層次,你才能夠證悟度化世人的事。說到度化,怎麼度化?你也只能像我這樣去講,這樣去做。說把誰的難都消下去就把你給拿上去,到那個時候你就知道了,你沒等把他拿上去,你就掉下去了,是絕對不允許的。另外也談不上修煉就得顧別人,都是執著。

Sư phụ: Phật có thể độ nhân, nhưng Phật không phải vì để độ nhân mà sinh ra; chư vị tưởng Phật nên phải độ chư vị sao? Đạt được giải thoát tự thân, La Hán chính là tu thành như vậy. Giả dụ chư vị muốn có cái nguyện vọng phổ độ chúng sinh này, vậy thì chư vị cần tiếp tục tu lên, chư vị đạt tới tầng thứ đó rồi, chư vị mới có thể chứng ngộ việc độ hóa thế nhân. Nói đến ‘độ hóa’, độ hóa thế nào? Chư vị cũng chỉ có thể giống như tôi đi giảng thế này, đi làm thế này. Nói [ta] tiêu đi nạn của ai đó thì đưa các vị [đó] lên, đến lúc đó chư vị sẽ biết, rằng chưa đợi chư vị đưa họ lên, thì chư vị đã rớt xuống rồi; là tuyệt đối không cho phép. Ngoài ra cũng đừng nói tu luyện là phải quan tâm tới người khác, [đó] đều là chấp trước.

弟子:老師出國講課給外國人下不下法輪?

Đệ tử: Thầy ra nước ngoài giảng bài cho người nước ngoài thì có cài Pháp Luân không?

師:真修誰都下。大法是宇宙的,全世界各國有緣人都能學都能得。

Sư phụ: Chân tu thì ai cũng được cài. Đại Pháp là của vũ trụ, những người hữu duyên các nước trên toàn thế giới đều có thể học đều có thể đắc.

弟子:中醫醫生是否可以用針灸治病?

Đệ tử: Bác sỹ Trung Y64 có thể dùng châm cứu để chữa bệnh không?

師:當然可以,那是常人中的這個工作。

Sư phụ: Đương nhiên là có thể, đó là công việc trong người thường.

弟子:凡是參加學習班的您都給下法輪嗎?

Đệ tử: Phàm là những người tham dự lớp học Ngài đều cài Pháp Luân cho có phải không?

師:不是。我知道在這裏學習的人,個別的他是不相信的,還有人抱著懷疑態度的。還有聽著挺好,可是最後他還是不能煉的。

Sư phụ: Không phải. Tôi biết những người học tập tại đây, có những người cá biệt họ không tin, còn có người ôm giữ thái độ hoài nghi. Còn có người nghe thì thấy rất hay, nhưng cuối cùng họ vẫn không thể luyện.

弟子:法輪被老師法身收回後又從新按老師的要求做,還給法輪嗎?

Đệ tử: Pháp Luân bị Pháp thân của Thầy thu hồi về sau đó lại lần nữa chiểu theo yêu cầu của Thầy mà làm, thì [Ngài] còn cấp Pháp Luân không?

師:那可真得下決心去做,就像沒學過功的人從頭開始學一樣。

Sư phụ: Thế thì thực sự hạ quyết tâm mà làm, chính là giống như người chưa từng học công mà bắt đầu học từ đầu.

弟子:法輪大法學員說能借您的法輪給學員調病?說能給您查病?

Đệ tử: Học viên Pháp Luân Đại Pháp nói có thể mượn Pháp Luân của Ngài điều trị bệnh cho học viên? Nói có thể khám bệnh cho Ngài?

師:那是魔心大起,誰可千萬別相信他!凡是這樣講的就不是我法輪大法的弟子,嚴重的破壞大法。我長這麼大不知道甚麼是病?給我查病的人你也得進的了我的場。

Sư phụ: Đó là ma tâm đại khởi, nhất quyết không một ai tin họ! Hễ là nói như vậy thì không phải đệ tử Pháp Luân Đại Pháp của tôi, phá hoại Đại Pháp một cách nghiêm trọng. Tôi lớn chừng này rồi còn chưa biết bệnh là gì? Người khám bệnh cho tôi các vị cũng phải [có khả năng] tiến vào được trường của tôi.

弟子:對無為應該怎麼理解?

Đệ tử: Nên lý giải thế nào về ‘vô vi’?

師:就是守住心性不能亂做有為之事,但是看到殺人放火還得管,那是心性問題。

Sư phụ: Chính là giữ vững tâm tính không được làm bừa những việc ‘hữu vi’, nhưng thấy những việc [kiểu như] sát nhân phóng hỏa thì vẫn phải quản, đó là vấn đề tâm tính.

弟子:我在煉功場上好像有人跟我講話,我也從心裏跟他說話?

Đệ tử: Con ở trường luyện công dường như có người nói chuyện với con, [và] con cũng nói chuyện với người ấy [trực tiếp] từ tâm của mình?

師:我就是講開了一些功修煉也不好修,就是這個原因。他一旦聽到人跟他說話了,看到甚麼東西了,他就把握不住自己了,他就高興起來了,他就跟它溝通起來了,可是他不知道那是不是魔。他不是魔也不是個正法修煉的覺者。他即使是天上來的不是邪的,他也不是得正果的,不然就不會干擾修正法的人。你想一想,你接受了他的東西的時候,你還能不能修煉了?你的東西亂沒亂?你的執著心出沒出來?人出了功能也是不好把握,開了功也不好修,就是這個原因,很難哪!說有多少人能夠修煉出來,我在看、天上也在看。

Sư phụ: Tôi chính là giảng rằng [người] khai mở một phần công thì tu luyện cũng không dễ tu, chính là nguyên nhân này. Họ hễ nghe thấy người ta nói chuyện với họ, nhìn thấy gì đó, họ liền không giữ vững nổi bản thân, họ bắt đầu cao hứng lên, họ liền giao tiếp với chúng, nhưng họ không biết đó là ma hay không. Vị đó không là ma thì cũng không phải là Giác Giả tu luyện chính Pháp. Dù cho vị ấy là đến từ thiên thượng không phải là tà, vị ấy cũng không đắc chính quả, nếu không đã không can nhiễu người tu chính Pháp. Chư vị thử nghĩ xem, khi chư vị tiếp nhận thứ của họ, chư vị còn có thể tu luyện nữa chăng? Những gì của chư vị có bị loạn hay không? Tâm chấp trước của chư vị chẳng phải đã lộ ra là gì? Người đã xuất công năng cũng không dễ giữ vững, khai công rồi cũng không dễ tu; chính là nguyên nhân này, khó lắm thay! Nói có bao nhiêu người có thể tu luyện xuất lai, tôi đang nhìn xem, thiên thượng cũng đang nhìn.


* * * * * * * * *

Giải đáp thắc mắc tại giảng Pháp ở Tế Nam

濟南講法答疑

Giải đáp thắc mắc tại giảng Pháp ở Tế Nam

李洪志

Lý Hồng Chí

弟子:煉功中閃出罵人的話是怎麼回事?

Đệ tử: Khi luyện công [trong đầu] chợt lóe lên lời mắng chửi người khác là chuyện gì?

師:就是你有一個不好的元神或思想業起的作用。有的人也可能有附體。凡是和其它功法摻著煉的就會這樣。我們不摻著煉,純淨煉法輪大法的沒有附體,大部份是思想業的作用。

Sư phụ: Chính là [vì] chư vị có một nguyên thần không tốt hoặc do nghiệp tư tưởng khởi tác dụng. Có người còn có thể có phụ thể. Phàm là luyện lẫn với công pháp khác thì sẽ như vậy. Chúng ta không trộn lẫn vào luyện; luyện Pháp Luân Đại Pháp một cách thuần tịnh không có phụ thể; [trường hợp trên] hầu hết là tác dụng của nghiệp tư tưởng.

弟子:刻苦的修煉本身是一種執著嗎?

Đệ tử: Bản thân việc tu luyện khắc khổ là một loại chấp trước phải không?

師:修煉不是執著,修煉是返本歸真,返出人的本性,那是你的本性,所以它不是執著。但是你老是講在嘴上,說我就想修成佛,我今天提高多少,我甚麼時間能成佛,你就是執著。有心煉功,無心得功,你只管去修,有這樣個願望就行了。

Sư phụ: Tu luyện không phải là chấp trước, tu luyện là phản bổn quy chân, quay về bản tính con người, đó là bản tính của chư vị, cho nên nó không phải là chấp trước. Nhưng nếu chư vị cứ mãi nói ở miệng, nói rằng tôi chính là muốn tu thành Phật, hôm nay tôi đề cao được bao nhiêu, khi nào tôi có thể thành Phật, thì chư vị là chấp trước. Hữu tâm luyện công, vô tâm đắc công, chư vị chỉ quan tâm đến tu, có nguyện vọng như vậy là được rồi.

弟子:沒參加班的人學煉法輪大法,老師的法身是否把其身體也淨化到奶白體並得到氣機?

Đệ tử: Người chưa tham gia lớp học mà học luyện Pháp Luân Đại Pháp, thì Pháp thân của Thầy có tịnh hóa thân thể họ thành nãi bạch thể65 và đắc được khí cơ không?

師:不參加學習班的他不是我們學員我管他幹甚麼呀?常人隨便管,我把全中國人都下上這個東西能行嗎?自己學功,照著書學、照著錄音帶學,能不能得到?我跟大家講,將來的學功形式就是這種形式了。因為你有我的法身管,我的書中有法身,我的錄像帶、錄音帶上都有,真能夠按照煉功人的標準去做,他也能夠得到。但是必須得真正按照煉功人的標準去修煉才能得到。說我就想鍛練身體不想往高修那得不到。

Sư phụ: Người không tham gia lớp học họ không là học viên của chúng tôi thì tôi quản họ làm gì đây? Tùy tiện quản người thường [sao], [vậy] tôi cài cái này cho những người trên toàn Trung Quốc có được không? Tự mình học công, chiểu theo sách mà học, chiểu theo băng tiếng mà học, thì có thể đắc được không? Tôi bảo mọi người này, tương lai hình thức học công chính là hình thức ấy. Bởi vì chư vị có Pháp thân của tôi quản; trong sách của tôi có Pháp thân; trong băng hình, băng tiếng của tôi đều có; thật sự có thể làm theo tiêu chuẩn của người luyện công, thì họ cũng có thể đắc được. Nhưng nhất định phải thật sự chiểu theo tiêu chuẩn người luyện công mà tu luyện thì mới có thể đắc được. Nói rằng tôi chỉ muốn rèn luyện thân thể không muốn tu lên cao thì sẽ không đắc được.

弟子:我是新學員煉了一個來月,發現沒有口水舌頂上顎困難,請老師指點?

Đệ tử: Con là học viên mới luyện được gần một tháng, [con] phát hiện không có nước miếng khi chống lưỡi vào hàm trên sẽ khó khăn, xin Thầy chỉ bảo?

師:不是說煉了功了,你就甚麼都能馬上改變了。你的心性怎麼樣啊?你想達到煉功人的狀態你得改變自己,從心性上改變的。有人說我煉了法輪大法了,我怎麼就沒好病啊?你在常人中你還是個常人,你煉煉這個動作就想好了,那哪行啊?目地不對,效果也不一樣的。

Sư phụ: Không nói rằng đã luyện công rồi, thì thứ gì chư vị cũng cải biến ngay lập tức. Tâm tính của chư vị thế nào đây? Chư vị muốn đạt được trạng thái của người luyện công chư vị cần phải cải biến chính mình, từ tâm tính mà cải biến. Có người nói tôi đã luyện Pháp Luân Đại Pháp rồi, sao bệnh của tôi vẫn không khỏi? Chư vị ở nơi người thường chư vị vẫn là người thường, chư vị luyện luyện động tác này liền muốn khỏi [bệnh], như vậy đâu có được? Mục đích không đúng, thì hiệu quả cũng không như vậy.

弟子:煉功加進意念,法輪會變形嗎?

Đệ tử: Luyện công thêm vào ý niệm, thì Pháp Luân sẽ biến dạng chăng?

師:加了其它功法的意念法輪會變形。至於說你自己亂七八糟的想法屬於常人的執著心,那不變形。只要是加入別的功法中的信息,不只是你手上的動作,你思想中加進這種意念引導、甚麼呼吸呀,或者是那個功法的那個想法呀,都會變形。因為修煉就是個嚴肅的問題,必須得專一修煉。

Sư phụ: Thêm vào ý niệm của công pháp khác thì Pháp Luân sẽ biến dạng. Còn như nói suy nghĩ loạn bát nháo của bản thân chư vị [vốn] thuộc về tâm chấp trước của người thường, vậy thì không biến dạng. Hễ là thêm vào tín tức trong công pháp khác, không chỉ động tác tay của chư vị, [mà] trong tư tưởng chư vị thêm vào loại ý niệm dẫn đạo này, hô hấp gì đó, hoặc cách nghĩ của công pháp này nọ, thì đều sẽ biến dạng. Bởi vì tu luyện chính là một vấn đề nghiêm túc, nhất định phải tu luyện chuyên nhất.

弟子:已圓寂千年的老和尚肉身不壞,是否也是被高能量物質轉化了?

Đệ tử: Lão hòa thượng viên tịch cả nghìn năm mà nhục thân bất hoại, phải chăng đã được vật chất cao năng lượng chuyển hóa?

師:實際上已經被高能量物質轉化了。因為佛教中講涅槃不講帶身體,所以那個身體他就不要了。他若要的話,他那個身體已經被高能量物質轉化了。像九華山有三個和尚,那個身體都是肉身身體幾百年了,上千年不壞就是因為他的身體已經完全被高能量物質代替了,他已經不是常人的身體了,所以他不壞。

Sư phụ: Trên thực tế đã được vật chất cao năng lượng chuyển hóa rồi. Vì trong Phật giáo giảng niết bàn không giảng mang theo thân thể, nên thân thể đó họ không cần nữa. Nếu họ cần, thì thân thể ấy của họ đã được vật chất cao năng lượng chuyển hóa rồi. Như núi Cửu Hoa Sơn có ba vị hòa thượng, thân thể đều là thân thể nhục thân mấy trăm năm, trên nghìn năm bất hoại chính là vì thân thể của họ đã hoàn toàn được vật chất cao năng lượng thay thế, chúng đã không còn là thân thể người thường nữa, nên chúng bất hoại.

弟子:能煉出元嬰的功法是否都是正法?

Đệ tử: Công pháp có thể luyện xuất ra nguyên anh có phải đều là chính Pháp?

師:那可不一定。有的它開始時不是邪法,開始比較還不錯,不修心性到以後就變成邪的了,說不定到以後它的元嬰就會化掉了,不化掉也會很邪惡。不能以出功的形式來看,出的甚麼東西不能以那個看。甚麼功法都得修煉心性。

Sư phụ: Không nhất định là vậy. Có [cái] lúc đầu không là tà pháp, ban đầu còn khá tốt, không tu tâm tính tới sau này liền biến thành tà, không chừng sau này nguyên anh của nó sẽ bị hóa mất, không hóa mất thì cũng sẽ rất tà ác. Không thể dựa vào hình thức xuất công mà xét, xuất ra được những thứ gì thì cũng không thể dựa vào đó mà xét được. Công pháp nào thì cũng đều phải tu luyện tâm tính.

弟子:小腹部位的法輪能否帶到來世?

Đệ tử: Pháp Luân tại vị trí bụng dưới có thể mang theo tới đời sau không?

師:我們也不講甚麼來世不來世的。我們要求在常人社會中就達到開功開悟的目地。我告訴你,到了很高層次還能修煉,但一般的常人修煉到一定層次之後開了功就停下來,你再煉他也不長,就那麼高。可是在極其特殊的情況下,也有在那個空間演煉長功的,將來你修煉出自己的那個法輪是永遠都起作用的,永遠帶著的。

Sư phụ: Chúng ta cũng không giảng cái gì đời sau hay không đời sau. Chúng ta yêu cầu trong xã hội người thường đạt được mục đích khai công khai ngộ. Tôi bảo chư vị này, đến tầng thứ rất cao vẫn có thể tu luyện; nhưng người thường bình thường sau khi tu luyện đến một tầng thứ nhất định và xuất công thì liền dừng lại; chư vị luyện tiếp nó cũng không tăng, chỉ cao ngần ấy. Nhưng trong những tình huống cực kỳ đặc thù, cũng có diễn luyện tăng trưởng công trong không gian nào đó; tương lai chư vị tu luyện ra Pháp Luân của bản thân mình thì vĩnh viễn khởi tác dụng, vĩnh viễn mang theo.

弟子:老師常提到真修二字,在講課中也提到真修弟子,請老師解釋?

Đệ tử: Thầy thường nhắc tới hai chữ ‘chân tu’, trong khi giảng bài cũng nhắc tới ‘đệ tử chân tu’, xin Thầy giải thích?

師:真修就是你真正去修了。就這個意思。

Sư phụ: Chân tu chính là chư vị chân chính mà tu. Chính là ý nghĩa này.

弟子:三花聚頂頭上只有兩朵花這是怎麼回事?

Đệ tử: Tam hoa tụ đỉnh trên đầu chỉ có hai đóa hoa thì là chuyện gì?

師:那就不是三花聚頂。功啊,出的各種狀態簡直太多了、太多了。我走過的這個路,初期或很淺的層次,那個功的變化形式成千上萬,都記不過來,我也不去記它。每一個層次身體的變化形式也不一樣的。

Sư phụ: Vậy không phải tam hoa tụ đỉnh. Công ấy, các loại trạng thái xuất ra quả thực quá nhiều rồi, quá nhiều rồi. Con đường tôi đi qua, thời kỳ đầu hoặc tại tầng thứ rất nông, thì công có hình thức biến hóa hàng nghìn hàng vạn kiểu, nhớ không xuể, tôi cũng không đi nhớ chúng. Bản thân mỗi từng tầng thứ có biến hóa của thân thể cũng khác nhau.

弟子:小腹下部產生的形像是元嬰,而這個胸部這個形象是誰?

Đệ tử: Hình tượng sinh ra tại phần dưới của bụng dưới là nguyên anh, còn hình tượng chỗ ngực này là ai?

師:你練了甚麼其它的東西了。當煉功人真正修煉時把甚麼都放下,我的法身會幫你處理好。當然我們有時人出功,表皮表面會出現一些佛的形像,出現很多,他還會動,因為他是物質存在的,會說話、會動的,當然那都屬於正常的。

Sư phụ: Chư vị đã luyện thứ nào khác rồi. Người tu luyện khi chân chính tu luyện thì thứ gì cũng đều buông bỏ, Pháp thân của tôi sẽ xử lý hết giúp chư vị. Đương nhiên chúng ta đôi khi người ta xuất công, thì trên bề mặt biểu bì sẽ xuất hiện một số hình tượng của Phật, sẽ xuất hiện rất nhiều, họ còn động đậy nữa, vì họ là tồn tại vật chất, biết nói chuyện, biết di động, đương nhiên đó đều thuộc về [trạng thái] chính thường.

弟子:假如有人想盜竊學員身上的財物或傷害時,法輪大法能不能發揮作用?

Đệ tử: Giả dụ có người muốn trộm tài vật trên thân học viên hoặc gây tổn hại [cho họ], thì Pháp Luân Đại Pháp có thể phát huy tác dụng hay không?

師:我告訴你萬事皆有因緣。你丟錢了,法輪不管,那很可能是有原因的。用法輪治偷你財物的人你是不是這個心哪?那哪行啊?說不定有些是欠人家的,自己不舒服了想用法輪去打別人,那哪行啊?我不是教邪法了嗎?別琢磨這些。修煉的人有我法身管你,該保護的他就保護你。

Sư phụ: Tôi nói với chư vị rằng vạn sự đều có nhân duyên66. Chư vị mất tiền, Pháp Luân mặc kệ, rất có thể là có nguyên nhân. ‘Dùng Pháp Luân để trị kẻ trộm tài vật của chư vị’ có phải chư vị có cái tâm này không? Vậy đâu có được? Không chừng những thứ đó là nợ người ta, bản thân mình thấy khó chịu liền muốn dùng Pháp Luân đánh người khác, thế sao được? [Nếu thế] chẳng phải tôi dạy tà pháp sao? Đừng nghĩ mãi những chuyện này. Người tu luyện có Pháp thân của tôi quản chư vị, [khi nào] cần bảo hộ thì họ sẽ bảo hộ chư vị.

弟子:佛經怎麼看?

Đệ tử: Nhìn nhận như thế nào về kinh Phật?

師:真正的佛經,釋迦牟尼講的經,我是承認的。可是釋迦牟尼佛說,所有經書裏面,真正他的東西不到百分之十。

Sư phụ: Kinh Phật chân chính, kinh do Thích Ca Mâu Ni giảng, thì tôi thừa nhận. Nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni nói, tất cả những gì trong kinh sách, những điều thực sự của Ông thì không đến mười phần trăm.

弟子:我去一個古代景點陵墓下看了看,請問,去看陵墓對法輪大法有沒影響?

Đệ tử: Con xuống một lăng mộ cổ tại điểm du lịch xem ngắm một chút, xin hỏi, đi xem lăng mộ có ảnh hưởng Pháp Luân Đại Pháp không?

師:沒有影響。但這些地方儘量少去。這些東西陰氣太重。另外哪,怎麼說哪,不乾淨的地方我們都不願去,亂七八糟的東西很不好。那就是墳墓嘛!

Sư phụ: Không ảnh hưởng. Nhưng cố gắng bớt đến những nơi đó. Những thứ này âm khí quá nặng. Ngoài ra, nói thế nào nhỉ, những nơi không sạch sẽ chúng ta đều không muốn tới, những thứ loạn bát nháo rất là không tốt. Đó chính là ngôi mộ mà!

弟子:我夢中一條蛇鑽進了衣服裏把它捏死了,是老師安排考驗我的心性嗎?

Đệ tử: Trong mơ có một con rắn chui vào quần áo con đã bóp chết nó, là Thầy an bài khảo nghiệm tâm tính của con phải không?

師:這些東西鑽進來處死就對了。這些壞的東西就是要附體,那就是魔。人類社會發展到今天叫它們干擾的簡直太厲害了,氣功界叫它禍亂的簡直不行了。那個廟裏也是一樣都是這類東西在禍亂。

Sư phụ: Những thứ này chui vào mà xử chết là đúng rồi. Những thứ xấu này chính là muốn phụ thể, đó chính là ma. Xã hội nhân loại phát triển tới ngày nay để chúng can nhiễu quả thực là quá ghê gớm rồi, giới khí công để nó làm loạn quả thực tới mức không chấp nhận được nữa. Trong chùa cũng như vậy đều là những thứ này đang làm loạn.

弟子:法輪世界是原有的還是新的?

Đệ tử: Thế giới Pháp Luân vốn đã có [từ trước] hay là mới?

師:原有的。你太想入非非了。

Sư phụ: Vốn đã có [từ trước]. Chư vị suy nghĩ viển vông67 quá rồi.

弟子:不用氣功看病,而用按摩、針灸等手段?除了氣功書,像《山海經》、《黃帝內經》等書能看嗎?

Đệ tử: Không dùng khí công để khám bệnh, mà dùng những biện pháp như xoa bóp, châm cứu? Ngoài sách khí công ra, thì những sách như «Sơn Hải Kinh», «Hoàng Đế Nội Kinh» có thể đọc không?

師:你還是放不下這些心,你看的目地為甚麼?這些書都不是大法修煉的書,你看它幹甚麼?你想要從中得到些甚麼東西嗎?不然你看它幹啥?你要真認為那句話好,你就已經接受了,你的功就要亂。為甚麼過去佛教中、道教中不讓接觸經書以外的任何書,就是怕他們的東西亂。保證你實修就要嚴肅的對待這個問題,解決你根本的問題,你怎麼能不嚴肅啊,你怎麼能放不下這顆心哪,我就講這個道理。不想修煉就想鑽研這些東西,隨便你看,我不是不讓常人看。至於說能不能按摩、針灸,你就是個中醫大夫,你去看好了,沒有問題。你不是醫生你又是煉大法的,就是想要給人看病,我說你就得放放這個執著心。

Sư phụ: Chư vị vẫn chưa buông được những tâm này, chư vị đọc mục đích là gì? Những sách kia đều không phải sách tu luyện Đại Pháp, chư vị đọc chúng làm gì? Chư vị muốn đắc được những gì từ trong đó chăng? Nếu không thì chư vị đọc chúng làm chi? Nếu chư vị thực sự cho rằng câu kia là đúng, thì chư vị đã tiếp thu rồi, công của chư vị sẽ bị loạn. Tại sao trong Phật giáo, Đạo giáo trước kia không cho phép tiếp xúc bất kỳ sách nào khác ngoài kinh sách [của họ], chính là sợ những thứ của họ bị loạn. [Muốn] đảm bảo chư vị thực tu thì phải nghiêm túc đối đãi vấn đề này, giải quyết vấn đề căn bản của chư vị; làm sao chư vị có thể không nghiêm túc chứ, lẽ nào chư vị có thể không buông bỏ nổi cái tâm ấy; tôi chỉ là giảng đạo lý này. [Nếu] không muốn tu luyện chỉ muốn đào sâu nghiên cứu những thứ kia, thì tùy chư vị đọc, tôi không phải không cho người thường đọc. Còn nói có thể xoa bóp hoặc châm cứu hay không, [nếu] chư vị là bác sỹ Trung Y, thì chư vị khám [bệnh] cũng được, không sao. [Nếu] chư vị không phải là bác sỹ và chư vị luyện Đại Pháp, mà lại muốn khám bệnh cho người ta, thì tôi nói rằng chư vị hãy buông bỏ tâm chấp trước đó đi.

弟子:法輪大法學員除了老師以外還是否有其他的上師?

Đệ tử: Học viên Pháp Luân Đại Pháp ngoài Thầy ra còn có thượng sư khác hay không.

師:法輪大法學員中沒有任何人能稱為老師,都是學員,都是弟子。大家都在學、都在修。將來開功開悟之後,只能用佛家的那種層次的叫法來稱呼。法輪大法也沒有其他上師。

Sư phụ: Trong học viên Pháp Luân Đại Pháp không có bất kỳ ai được xưng là Thầy; đều là học viên, đều là đệ tử. Mọi người đều đang học, đều đang tu. Tương lai sau khi khai công khai ngộ, chỉ có thể dùng cách xưng hô trong tầng thứ đó của Phật gia để xưng hô. Pháp Luân Đại Pháp cũng không có thượng sư nào khác.

弟子:我們真正的母親是誰,她是我們共同的母親嗎?

Đệ tử: Mẹ thực sự của chúng con là ai, bà ấy là mẹ chung của chúng ta phải không?

師:想入非非,你們怎麼能和我並論呢?!生命有兩種來源形式,一種是從宇宙各個層次的各種物質的運動中產生的,所以比較原始,但是一直流傳到今天。宇宙運動中還能產生生命,還在產生著,所以有的人生命沒有那麼長,有的人歷史很短。再有一種形式就是在各個層次中很早出現的那些高級生命他們所生的,這樣的人,我看還是比較幸福的,他還有母親。就是那些先天生的,他們很羨慕人家有母親的,他們沒有母親。

Sư phụ: Lại nghĩ viển vông; chư vị sao có thể đàm luận ngang hàng với tôi?! Sinh mệnh có hai loại hình thức [nguồn gốc] nguyên lai, một loại là sản sinh ra trong sự vận động của các chủng vật chất tại các tầng thứ trong vũ trụ, cho nên khá là nguyên thủy, nhưng một mạch lưu truyền tới tận ngày nay. Trong sự vận động của vũ trụ vẫn có thể sản sinh sinh mệnh, vẫn đang sản sinh, cho nên có người sinh mệnh không lâu như vậy, có người lịch sử rất ngắn. Còn có một loại hình thức chính là sinh ra bởi những sinh mệnh cao cấp vốn đã xuất hiện từ rất sớm ở các tầng thứ, những người như thế, tôi thấy [vậy] vẫn là khá hạnh phúc, họ còn có mẹ. Ngay cả những [sinh mệnh] tiên thiên sinh ra kia, họ cũng rất hâm mộ [những sinh mệnh] có mẹ, [vì] họ không có mẹ.

弟子:為了追求正道大法,而想方設法到處跟李老師聽課可以嗎?

Đệ tử: Vì truy cầu đại Pháp chính Đạo, mà nghĩ đủ mọi cách đi khắp nơi theo thầy Lý nghe giảng có được không?

師:有的人跟班走聽課,為了得法,那個心我也不能反對。但是有一點大家別忘了,得真正去實修!你老是這麼跟著也不行,你光聽,你自己的心性得在實際修煉當中去魔煉,你得去實修。有些人想跟著我沒有難哪,你修甚麼?有的人還以為我要進山,要跟我進山去修,那你不修副意識了嗎?兩種修煉形式,你要想提高你自己完成你這個修煉過程,你必須在常人中紮紮實實的去修的,學好法。

Sư phụ: Có người đi theo lớp nghe giảng, vì để đắc Pháp, cái tâm đó tôi cũng không thể phản đối. Nhưng có một điểm mọi người đừng quên, là cần phải chân chính thực tu! Chư vị cứ mãi đi theo [tôi] như vậy cũng không được, chư vị chỉ nghe suông; tâm tính bản thân chư vị phải trong tu luyện thực tế mà ma luyện, chư vị phải thực tu. Một số người nghĩ đi theo tôi thì không có nạn, [vậy thì] chư vị tu gì đây? Có người còn tưởng tôi sắp vào núi, muốn theo tôi vào núi tu; vậy chẳng phải chư vị tu phó ý thức rồi sao? Hai loại hình thức tu luyện, chư vị muốn đề cao bản thân chư vị hoàn thành quá trình tu luyện này của chư vị, thì chư vị cần phải ở nơi người thường mà tu một cách hết sức thiết thực, phải học Pháp tốt.

弟子:講一下關於人類的起源可以嗎?

Đệ tử: [Ngài] có thể giảng một chút về khởi nguyên68 của nhân loại được không?

師:字裏行間都是在探討知識,你還是放下這個心吧。我已經講了人類的起源,生命不就是在宇宙空間中最早的物質運動下才產生生命的嗎?

Sư phụ: Giữa những dòng chữ69 đều là [cái tâm] tìm hiểu tri thức, chư vị vẫn là buông bỏ tâm đó đi. Tôi đã giảng khởi nguyên của nhân loại rồi, sinh mệnh chẳng phải là dưới sự vận động của những vật chất sớm nhất trong không gian vũ trụ mới sản sinh ra sinh mệnh hay sao?

弟子:對於形神全滅的人來說他的元神還存在嗎?

Đệ tử: Đối với những người bị hình thần toàn diệt mà nói thì nguyên thần của họ còn tồn tại không?

師:形神都全滅了還存在甚麼哪,就像這個宇宙中從來都沒有過他一樣。可是被全滅的過程是痛苦和悔恨至極的。我們的空間會覺的一下子死掉了,可是在被消滅的時間場中卻是感到無比的漫長。

Sư phụ: Cả hình thần đều ‘toàn diệt’ rồi thì còn tồn tại gì chứ, giống hệt như trong vũ trụ này xưa nay chưa hề có họ. Nhưng quá trình bị toàn diệt là thống khổ và hối hận cùng cực. Tại không gian của chúng ta sẽ cảm thấy [họ] lập tức chết xong, nhưng trong trường thời gian [của kẻ] bị tiêu hủy lại cảm thấy đằng đẵng vô tỷ70.

弟子:老年婦女月經回潮是否存在再生育的問題?

Đệ tử: Kinh nguyệt của phụ nữ lớn tuổi có trở lại phải chăng là tồn tại vấn đề [có thể] tiếp tục sinh sản?

師:我們煉功時身體向年輕轉化是要你來修命的,可不是要你來過常人那種生活的。它可能牽扯這個問題,因為整個身體都向年輕方向轉化了,所以你還得注意這些事。

Sư phụ: Khi chúng ta luyện công thân thể chuyển hóa theo hướng trẻ lại là để chư vị tu mệnh, chứ không phải dùng để sống cuộc sống kia của người thường. Nó có thể dẫn tới vấn đề [nêu trên]; vì toàn bộ thân thể đều chuyển hóa về phương diện tuổi trẻ, cho nên chư vị vẫn phải chú ý những việc này.

弟子:在向別人宣傳法輪大法的時候,是否應以老師講法中的語言為指導思想,還是整體上以老師講的真、善、忍為指導思想?

Đệ tử: Khi tuyên truyền Pháp Luân Đại Pháp với người khác, liệu có nên lấy ngôn từ trong giảng Pháp của Sư phụ làm tư tưởng chỉ đạo, hay là lấy Chân-Thiện-Nhẫn mà Sư phụ giảng trên tổng thể làm tư tưởng chỉ đạo?

師:我的法就是我講的,是統一的東西,我講出的東西就是這個大法中的東西。我在這裏講的東西沒有講我個人的觀點,所以大家在講這個東西的時候,只能說書中怎麼怎麼寫的,或者老師怎麼怎麼講的也可以。最好是念書。你不要把我的話當作是你的話去講了,那麼他就不起這個作用了,而且是盜法行為。但談個人感受可以,那和法是兩回事。

Sư phụ: Pháp của tôi chính là tôi giảng, là một thứ thống nhất, điều tôi giảng ra chính là những gì trong Đại Pháp này. Những gì tôi giảng ra tại đây không hề giảng quan điểm cá nhân tôi, cho nên khi mọi người giảng những điều này, chỉ có thể nói trong sách viết như thế như thế, hoặc Thầy giảng như thế như thế là được rồi. Tốt nhất là đọc sách [thành tiếng]. Chư vị không được lấy những lời tôi giảng thành lời của chư vị mà giảng nói, nếu vậy Nó sẽ không khởi được tác dụng này, hơn nữa [đó] còn là hành vi trộm Pháp. Nhưng nói về cảm thụ cá nhân thì được, điều đó với Pháp là hai chuyện [khác nhau].

弟子:人們所看到的海市蜃樓?

Đệ tử: Những thành phố nhà lầu ảo ảnh mà người ta nhìn thấy [là gì vậy]?

師:我說就是另外空間的景象陰差陽錯的閃現出來了。那邊的建築也不光都是那個古式的,也有現在這種樓房建築。而且那邊的空間有的可以移動。

Sư phụ: Tôi nói [đó] chính là cảnh tượng tại không gian khác lấp loáng hiện ra một cách tình cờ ngẫu nhiên. Kiến trúc bên đó cũng không phải toàn là [kiến trúc] kiểu cổ, cũng có kiểu kiến trúc nhà lầu như hiện nay. Hơn nữa tại không gian bên đó có thứ có thể di động.

弟子:怎樣看善意的謊言?比方說某某人病危了?

Đệ tử: Nhìn nhận như thế nào về những lời nói dối có thiện ý? Ví như ai đó gặp bệnh hiểm nghèo?

師:比如他得了癌症了,你不想跟他說真實情況,這樣的勉強的吧可以。你出發點還是為了別人,還是為了別人好吧。當然我想到了高層次這些事情,你也自己能擺正,我看對病人不應該說謊。怕病人痛苦那不是常人中這個理嗎?到高層次上修煉之後發現不是那麼回事。痛苦會消業來世會得好。

Sư phụ: Ví dụ họ đã mắc bệnh ung thư, chư vị không muốn nói cho họ tình hình chân thực, như vậy miễn cưỡng thì cũng khả dĩ. Xuất phát điểm của chư vị vẫn là vì người khác, vẫn là muốn tốt cho người khác. Đương nhiên tôi nghĩ rằng những sự tình này khi đến tầng thứ cao rồi, thì chư vị cũng có thể tự mình thu xếp ngay chính, tôi nghĩ rằng với người bệnh thì không nên nói dối. Sợ bệnh nhân đau khổ ấy chẳng phải là Lý trong người thường sao? Sau khi tu luyện lên đến cao tầng thì phát hiện không phải là chuyện như vậy nữa. Thống khổ sẽ tiêu nghiệp đến đời sau sẽ đắc được điều tốt.

弟子:出於尊敬和感激,我們給佛、菩薩和師父的法身上香、供養算不算執著心?

Đệ tử: Xuất phát từ sự tôn kính và cảm kích, chúng con dâng hương, cúng dường cho chư Phật, Bồ tát và Pháp thân của Sư phụ, thì có tính là tâm chấp trước không?

師:其一那是敬意。其二其實人們都以為它是一種形式上的東西,那個香燒完了之後它冒起的煙,你看到是我們這個空間的煙,可是它在另外空間裏也有煙。我們這邊物質消失了在那邊就產生了。他們要這個東西演化他們法的,所以供養他,不只是敬意還有這樣一層關係。供養嘛,要不怎麼說供養哪。

Sư phụ: Thứ nhất đó là cái tâm kính ngưỡng. Thứ hai kỳ thực người ta đều tưởng rằng đó thứ về hình thức; [thật ra] hương cháy xong thì khói mà nó bốc ra, chư vị nhìn thấy là khói tại không gian này, nhưng tại không gian khác nó cũng có khói. Bên này của chúng ta vật chất ấy tiêu mất rồi thì tại bên kia lại sản sinh. Họ cần những thứ ấy để diễn hóa pháp của họ, cho nên cúng dường cho họ, không chỉ là cái tâm kính ngưỡng mà còn có một tầng quan hệ như vậy. Cúng dường mà, nếu không sao lại nói là cúng dường71 chứ.

弟子:煉功人的身上出現佛的形像是怎麼回事?

Đệ tử: Trên thân của người luyện công xuất hiện hình tượng của Phật thì là chuyện gì?

師:正常的。功就是這樣的,初期比小米粒還小,到後來會越出越大。因為身體的每一層粒子都得改變,最後成為佛體。

Sư phụ: Là bình thường. Công chính là như thế, thời kỳ đầu còn nhỏ hơn cả hạt gạo, sau này càng ngày càng lớn. Vì mỗi tầng lạp tử của thân thể đều phải cải biến, cuối cùng trở thành Phật thể.

弟子:老師能否給我們講講法輪世界?

Đệ tử: Thầy có thể giảng một chút cho chúng con về thế giới Pháp Luân không?

師:我們有的學員看到了,有山呀水呀,樓台亭閣呀,要詳細知道那你就修煉。

Sư phụ: Có học viên chúng ta đã nhìn thấy, có non có nước, lâu đài đình các, muốn biết tường tận vậy thì chư vị hãy tu luyện.

弟子:有些傳大法普度眾生的大覺者,為甚麼自古以來沒聽人提到過呢?

Đệ tử: Có một số Đại Giác Giả truyền đại Pháp phổ độ chúng sinh, vì sao từ xưa tới nay không nghe thấy người ta nhắc tới?

師:釋迦牟尼佛講如來佛多的像恆河的沙數,能一一都講嗎?不該你知道的就不讓你知道唄。常人甚麼都知道了,那不掉過了嗎?你成佛了他們成常人了嗎?常人怎麼能知道那麼高深的東西呀。過去超過如來以上的東西都不叫人知道的。而法輪世界不在這個宇宙裏,其實釋迦牟尼佛講過我們的事,也講過我過去的事,有的有記載,有的已經沒有記載了。

Sư phụ: Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Phật Như Lai nhiều như số cát sông Hằng72, có thể giảng hết ra từng người một không? Những điều chư vị không nên biết thì sẽ không để chư vị biết. Người thường chuyện gì cũng biết rồi, vậy chẳng phải đảo ngược rồi sao? Chư vị thành Phật rồi, họ thành người thường rồi hay sao? Người thường sao có thể biết được những điều cao thâm như vậy. Trước kia những gì cao hơn Như Lai trở lên đều không để con người biết. Hơn nữa Thế giới Pháp Luân không nằm trong vũ trụ này; kỳ thực Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng giảng về chuyện của chúng ta, cũng từng giảng chuyện của tôi trước kia, có điều được ghi chép lại, có điều đã không còn ghi chép.

弟子:如果有附體的人讓我們散了功怎麼辦?

Đệ tử: Nếu người có phụ thể khiến chúng con tán công thì làm thế nào?

師:散了功甚麼意思啊?它沒有那個本事。你自己把握不住招來這些東西了,你想要,那可是另外回事。你不動心它傷害不了你的。心裏怕就是執著,也是對大法不堅定,我的法身只能負責堅定修大法的。

Sư phụ: Tán công là ý gì? Nó không có bản sự đó. Bản thân chư vị giữ không vững mà chiêu mời những thứ đó, chư vị muốn [chúng], thì đó lại là chuyện khác. Chư vị bất động tâm thì nó không thể làm hại chư vị. Trong tâm mà sợ thì chính là chấp trước, cũng là không kiên định vào Đại Pháp; Pháp thân của tôi chỉ có thể phụ trách những người kiên định tu Đại Pháp.

弟子:平時睜眼看到周圍有大小法輪在旋轉,閉眼時看不到這是為甚麼,如何對待?

Đệ tử: Bình thường mở mắt nhìn thấy xung quanh có Pháp Luân lớn nhỏ xoay chuyển, khi nhắm mắt lại thì không nhìn thấy chuyện này là sao, nên đối đãi thế nào?

師:睜眼和閉眼是一樣,這是一種習慣的看法。習慣了都可以看的。

Sư phụ: Mở mắt và nhắm mắt đều như nhau, đây là một kiểu nhìn theo thói quen. Quen rồi thì đều có thể nhìn thấy được.

弟子:研究奇門遁甲、祝由科可以嗎?

Đệ tử: Nghiên cứu Kỳ Môn Độn Giáp, khoa chúc do có được không?

師:祝由科是屬於低靈鬼神甚麼的,修大法你研究它幹甚麼?周易、奇門遁甲你要想研究這些東西你就去研究,那麼作為一個法輪大法弟子,我說就不符合。這些東西有些是術類的東西,有些是道家最低層次的東西。你自己琢磨怎麼辦吧。

Sư phụ: Khoa chúc do thuộc về những thứ như linh thể thấp quỷ thần gì đó, tu Đại Pháp thì chư vị còn nghiên cứu nó làm gì? Chu Dịch, Kỳ Môn Độn Giáp nếu chư vị muốn nghiên cứu những thứ này thì chư vị cứ nghiên cứu; nhưng làm một đệ tử Pháp Luân Đại Pháp, tôi nói rằng [như vậy] không phù hợp. Những thứ này có một số là những thứ thuật loại, có một số là những thứ của tầng thấp nhất của Đạo gia. Tự thân chư vị hãy suy nghĩ xem làm thế nào.

弟子:佛教中對放生看的重,認為放生可消災、長壽……?

Đệ tử: Trong Phật giáo coi trọng phóng sinh, cho rằng phóng sinh có thể tiêu tai, trường thọ…?

師:這些事情都是有為的,不是修煉。再說你也放不過來,說不定其中就有到壽的,有意做這些事情就是執著心。我們講無為的,為甚麼你非得有為的去做這些事情?打的鳥也好哇、抓的魚也好哇,其實那些人專門幹這些事。有人買了他下次再去抓它,你給他全買去了,你放生了,好傢伙,明天再去弄。你還去買了放生嗎?等於幫他幹壞事,我說儘量不要搞這些事情。現在佛教中也在搞這些有為的事情。因為釋迦牟尼當年傳法的時候,沒有那些形式。

Sư phụ: Những chuyện này đều là hữu vi, không phải là tu luyện. Hơn nữa chư vị cũng không thể phóng [sinh] được, không chừng trong đó có con đã hết thọ mệnh; hữu ý làm những sự tình này thì chính là tâm chấp trước. Chúng ta giảng vô vi, tại sao chư vị cứ phải hữu vi mà đi làm những việc này? Bắn chim cũng vậy, bắt cá cũng vậy, kỳ thực những người đó chuyên làm những việc này. Có người mua rồi, lần sau họ lại đi bắt nó về, chư vị mua hết cho họ, chư vị phóng sinh rồi, tốt thôi, ngày mai lại đi bắt. Chư vị còn mua về phóng sinh nữa không? Cũng bằng như giúp họ làm việc xấu, tôi nói rằng cố gắng đừng làm những việc này. Hiện nay trong Phật giáo cũng làm ra những sự việc hữu vi này. Bởi vì Thích Ca Mâu Ni năm đó khi truyền Pháp, là không có những hình thức đó.

弟子:我不練某功了想把掛圖燒掉,有人要練要去了,我知道它不好又送給人是否不道德?

Đệ tử: Con không luyện công đó nữa muốn đem tranh đang treo đốt đi, có người muốn luyện muốn xin về, con biết nó không tốt lại tặng cho người khác như vậy có phải là không có đạo đức hay không?

師:他非要要,你已經做了就別管他了。送人當然不好了,那東西又會害別人。

Sư phụ: Họ nhất định xin, mà chư vị cũng đã làm rồi thì đừng quản họ nữa. Tặng người đương nhiên không tốt rồi, thứ đó lại sẽ đi hại người khác.

弟子:有時家中大師的法像顯現出金光燦燦的大佛,有時又面沉似水?

Đệ tử: Đôi khi Pháp tượng73 của Đại Sư trong nhà hiển hiện ra vị Đại Phật kim quang lấp lánh, đôi khi khuôn mặt lại nghiêm khắc và đầy lo lắng?

師:是這樣的。當你做了好事的時候,我的法身就會顯現出來高興的樣子,或者放出光來。你要是做了壞事的時候他就非常嚴肅。

Sư phụ: Là vậy đó. Khi chư vị làm việc tốt, Pháp thân của tôi sẽ hiển hiện ra dáng vẻ vui mừng, hoặc là phóng ra ánh quang. Nếu khi chư vị làm việc xấu Ông sẽ [trông] vô cùng nghiêm túc.

弟子:好友信邪法可否勸阻他?

Đệ tử: Bạn thân tin vào tà pháp thì có nên khuyên ngăn họ?

師:可以勸阻他。他信邪門歪道,不讓他學,你在救人嘛。非信不可你不要硬管,隨他去吧。

Sư phụ: Có thể khuyên ngăn họ. Họ tin tà môn oai đạo, thì đừng để họ học, chư vị đang cứu người mà. Cứ nhất quyết tin thì chư vị cũng đừng miễn cưỡng quản, tùy họ đi thôi.

弟子:副意識走後主意識處於甚麼狀態?

Đệ tử: Sau khi phó ý thức đi rồi chủ ý thức sẽ ở trạng thái như thế nào?

師:副意識走後你不知道,啥狀態也沒有。

Sư phụ: Sau khi phó ý thức đi rồi chư vị [sẽ] không biết, không hề có trạng thái gì cả.

弟子:過色關會出現反復現象嗎?

Đệ tử: Vượt quan74 sắc có xuất hiện hiện tượng lặp đi lặp lại không?

師:對,會出現。你一次沒過好,他會出現反復的,你現在守的挺好,將來怎麼樣?還會考驗你的。

Sư phụ: Đúng vậy, sẽ xuất hiện. Một lần chư vị vượt [quan] không tốt, thì nó sẽ xuất hiện lặp đi lặp lại, hiện nay chư vị giữ được rất tốt, tương lai thì thế nào? Vẫn phải khảo nghiệm chư vị.

弟子:法輪大法學員結業多長時間後,男女才能同居?

Đệ tử: Học viên Pháp Luân Đại Pháp kết thúc khóa học bao lâu thì nam nữ mới có thể ở cùng nhau?

師:我們在學習班上也沒有說你倆口子都分開住啊!我們講了你要把這顆心放淡,在生活上你現在還可以保持著正常的生活就行了,現在只能這樣要求你,說你學了之後都當了和尚,不是和尚的和尚,不是尼姑的尼姑,你愛人不煉功都鬧著要跟你離婚,法輪大法弟子一個個都成了這樣式了?就是你不要把它想的太重,將來漸漸提高後你會知道該怎麼對待的。

Sư phụ: Tại lớp học chúng tôi cũng không nói rằng hai vợ chồng chư vị hãy ở riêng mà! Chúng tôi giảng rằng chư vị phải xem nhẹ cái tâm đó, hiện nay trong sinh hoạt chư vị vẫn có thể bảo trì sinh hoạt bình thường là được rồi, hiện nay chỉ có thể yêu cầu chư vị như vậy, nói rằng sau khi chư vị học thì đều làm hòa thượng, hòa thượng không ra hòa thượng, ni cô không ra ni cô, ái nhân75 của chư vị không luyện công sẽ gây chuyện đòi ly hôn với chư vị, đệ tử Pháp Luân Đại Pháp ai ai cũng đều thành dạng như vậy sao? Chính là chư vị không được nghĩ quá nặng về nó, tương lai sau khi dần dần đề cao lên chư vị sẽ biết nên đối đãi thế nào.

弟子:我做過子宮摘除手術對煉功有影響嗎?

Đệ tử: Con đã làm phẫu thuật cắt bỏ tử cung thì có ảnh hưởng tới luyện công không?

師:沒有影響。你這邊物質空間的身體把它摘掉了,那邊沒摘掉。

Sư phụ: Không ảnh hưởng gì. Thân thể nơi không gian vật chất bên này của chư vị đã cắt bỏ nó đi, nhưng bên kia thì chưa cắt bỏ.

弟子:心性修煉到一定階段是否不能有任何不好的念頭產生?

Đệ tử: Tu luyện tâm tính đạt tới một giai đoạn nhất định thì phải chăng không thể có bất kỳ niệm đầu bất hảo nào sản sinh?

師:因為整個心性修煉過程,都是去你不好的思想和各種慾望。說你在修煉過程當中你把它都去掉了,甚麼壞思想都不產生了,那你不是修煉到頭了嗎?你已經功成圓滿了嗎?所以在修煉過程當中還會出現。有的時候閃現出來不好的念頭那都是正常的,但是也要注意這些東西,要注意排斥它。

Sư phụ: Vì toàn thể quá trình tu luyện tâm tính, đều là loại bỏ những tư tưởng bất hảo và các chủng dục vọng của chư vị. Nói rằng trong quá trình tu luyện chư vị loại bỏ nó đi cả rồi, không còn sản sinh tư tưởng bất hảo nào nữa, vậy chẳng phải chư vị đã tu luyện tới đích rồi sao? Chư vị đã công thành viên mãn rồi sao? Cho nên trong quá trình tu luyện vẫn sẽ xuất hiện. Có lúc lóe lên niệm đầu bất hảo đó đều là bình thường, nhưng cũng phải chú ý những thứ này, phải chú ý bài trừ nó.

弟子:法輪大法學員能否掃墓、看危重病人?

Đệ tử: Học viên Pháp Luân Đại Pháp có thể tảo mộ, thăm người ốm nặng không?

師:這個非得要看你就去看,家裏邊沒人掃墓你就去掃。但是有一點,你層次很高的時候、能量很大的時候你去了它害怕,會把它衝的很遠。

Sư phụ: Chuyện này nếu buộc phải đi thì chư vị cứ đi, trong nhà không có ai tảo mộ thì chư vị cứ đi tảo. Nhưng có một điểm, khi tầng thứ của chư vị đã rất cao, khi năng lượng rất lớn chư vị đi sẽ khiến nó sợ hãi, sẽ khiến nó bị đẩy ra rất xa.

弟子:我小外孫八歲開天目,而九歲多又關上了?

Đệ tử: Cháu ngoại con tám tuổi khai thiên mục, nhưng hơn chín tuổi lại bị đóng lại?

師:小孩把握不住自己的時候,或者家裏大人不注意,老叫孩子看來看去的,增長你執著心的時候,都容易把孩子毀了。我告訴你,我看到我們煉功的小孩,很多都是有來頭的,你不要把他毀了,你修不上去把他也毀了,罪可大去了。

Sư phụ: Khi trẻ nhỏ không giữ vững được bản thân, hoặc người lớn trong nhà không chú ý, khi cứ bảo trẻ nhỏ xem tới xem lui, làm tăng trưởng tâm chấp trước của chư vị, thì đều dễ hủy đi đứa trẻ. Tôi nói với chư vị rằng, tôi nhìn thấy những đứa trẻ luyện công của chúng ta, rất nhiều em là có lai lịch, chư vị không được làm hủy chúng, chư vị không tu được lên trên lại còn làm hủy chúng, tội rất lớn đó.

弟子:學員遭壞蛋強暴該不該還手?

Đệ tử: Học viên gặp kẻ xấu cường bạo76 có nên đánh trả?

師:我們真正修煉的人不會遇上這樣的事。對修煉沒有好處的事,不給你安排。

Sư phụ: Người tu luyện chân chính chúng ta sẽ không gặp phải chuyện như vậy. Những chuyện không chỗ gì tốt cho tu luyện, thì sẽ không an bài cho chư vị.

弟子:家裏人學煉法輪大法還沒開始學能不能給錄音帶聽?

Đệ tử: Người nhà học luyện Pháp Luân Đại Pháp mà chưa bắt đầu học thì có thể cho [họ] nghe băng tiếng không?

師:要想學法輪大法的人可以聽。隨隨便便的給不相信和破壞法的人聽、不負責任隨便的誰都聽,我說那就不行。弄不好你的錄音機壞了,你帶子被洗掉了。

Sư phụ: Người muốn học Pháp Luân Đại Pháp [thì] có thể nghe. Tùy tùy tiện tiện cho người không tin và phá hoại Pháp nghe, không chịu trách nhiệm mà tùy tiện ai cũng cho nghe, tôi nói như vậy thì không được. Không khéo máy thu âm của chư vị sẽ bị hỏng, băng hình cũng bị xóa sạch.

弟子:您教的這套功法為甚麼要做九遍?

Đệ tử: Bộ công pháp Ngài dạy đây vì sao phải làm chín lần?

師:佛家講九九歸真哪。我們這個宇宙,現在發生了九次毀滅,又從新組合。這個宇宙中許多事情,都是以九這個數字為最大數字的。

Sư phụ: Phật gia giảng ‘cửu cửu quy chân’ mà. Vũ trụ này của chúng ta, hiện nay đã xảy ra chín lần hủy diệt, rồi lại tổ hợp lại mới. Rất nhiều sự việc trong vũ trụ này, đều coi con số chín này là con số lớn nhất.

弟子:身上和頭部能否有固定的法輪?

Đệ tử: Trên thân và phần đầu có thể có Pháp Luân cố định không?

師:除了小腹裏的再沒有甚麼固定的法輪。你肩上的,頭上的,這都是給你調整身體的,那不是給你的。調整完身體之後就不需要了,他就回去了。真正給你的就是小腹部位的那個。你以後煉功還會煉出自己的來。

Sư phụ: Ngoài cái tại bụng dưới ra thì không có Pháp Luân cố định nào cả. [Cái] trên vai, trên đầu của chư vị, đó đều là để điều chỉnh thân thể của chư vị, cái đó không phải là cấp cho chư vị. Điều chỉnh thân thể xong thì không cần nữa, Nó sẽ quay trở về. Cái thực sự cấp cho chư vị là [Pháp Luân] tại vị trí bụng dưới đó. Sau này chư vị luyện công cũng sẽ luyện xuất ra cái [Pháp Luân] của mình.

弟子:有的人開天目以後能看到您許多法身,有人說家中只能有一個法身?

Đệ tử: Có người sau khi khai mở thiên mục nhìn thấy rất nhiều Pháp thân của Ngài, có người nói trong nhà chỉ có thể có một Pháp thân?

師:那不一定。我的法身簡直多的不計其數,太多了。

Sư phụ: Cái đó không nhất định. Pháp thân của tôi quả thực nhiều không đếm xuể, quá nhiều rồi.

弟子:打坐時思考自己的過錯,體悟某句古訓?

Đệ tử: Khi ngồi đả tọa suy ngẫm về những sai lầm của mình, thể ngộ về cổ huấn77 nào đó?

師:那古訓可不是修煉法理,你別老古訓古訓的。古代人講的不一定是真理,只有這個宇宙特性才是衡量人的好壞的唯一標準。那古人他講的好和壞那也是常人中的標準。當然有些人講的,聖人講的是很高層次上哲理的東西倒是可以,我想你別執著於這些東西。修大法你就得按照我的法作指導。

Sư phụ: Cổ huấn không phải là Pháp lý tu luyện, chư vị đừng cứ mãi cổ huấn cổ huấn. Lời người xưa nói không nhất định là chân lý, chỉ có đặc tính vũ trụ này mới là tiêu chuẩn duy nhất đo lường sự tốt xấu của con người. Tốt và xấu mà người xưa giảng đó cũng chỉ là tiêu chuẩn nơi người thường. Đương nhiên có [những điều] một số người giảng, thánh nhân giảng là những điều mang tính triết lý ở tầng thứ rất cao thì cũng được thôi, tôi nghĩ rằng chư vị đừng chấp trước vào những thứ này. Tu Đại Pháp thì chư vị phải chiểu theo Pháp của tôi làm chỉ đạo.

弟子:有的學員天目開了能與您的法身對話,偶然您的法身會說幾句笑話?

Đệ tử: Có học viên thiên mục khai mở rồi có thể nói chuyện với Pháp thân của Ngài, ngẫu nhiên Pháp thân của Ngài còn nói mấy câu nói đùa?

師:這是可以的。說句笑話或者說句反話叫你悟,但他不會直截了當的給你講甚麼法,給你做一些甚麼事。

Sư phụ: Điều này thì có thể. Nói câu nói đùa hoặc nói lời ngược lại để chư vị ngộ, nhưng Ông sẽ không trực tiếp nói thẳng giảng Pháp gì cho chư vị, làm một số chuyện gì đó cho chư vị.

弟子:如果心性沒過關法輪會變形嗎?

Đệ tử: Nếu tâm tính không vượt được quan thì Pháp Luân có biến dạng không?

師:心性沒過去法輪不會變形,與法輪沒有關係。法輪變形都是摻著其它功法練了造成的。

Sư phụ: Tâm tính chưa vượt qua được thì Pháp Luân sẽ không biến dạng, không quan hệ gì với Pháp Luân. Pháp Luân biến dạng đều do luyện lẫn công pháp khác mà ra.

弟子:法輪大法基地何時建?

Đệ tử: Cơ sở của Pháp Luân Đại Pháp khi nào mới được xây dựng?

師:還沒打算,法輪大法基地將來建成了,也是由我們專修弟子、出家人管理,一樣不動錢財的。

Sư phụ: Chưa có kế hoạch; cơ sở của Pháp Luân Đại Pháp sau này nếu xây dựng, cũng là do các đệ tử chuyên tu, người xuất gia chúng ta quản lý; cũng đồng dạng không động đến tiền tài.

弟子:老師的法身和功身本質有甚麼不同?

Đệ tử: Pháp thân và công thân của Thầy về bản chất có gì khác nhau?

師:你們沒有功身。我的功身形像和我現在形像一樣的,是由功構成的。法身是從體內生出來的也是由功、法形成的。法身的形像就像那個藍頭髮捲捲的、穿黃衣服。功身跟我一樣的。

Sư phụ: Chư vị không có công thân. Hình tượng công thân của tôi và hình tượng hiện nay của tôi là giống nhau, là do công cấu thành. Pháp thân là từ trong thân thể mà sinh ra cũng là do công và Pháp hình thành. Hình tượng của Pháp thân thì giống như [hình tượng] tóc xanh lam xoăn xoăn, mặc áo vàng. Công thân thì giống hệt như tôi.

弟子:我命中註定沒有姻緣,是否沒有經過常人生活就永遠不成正果?

Đệ tử: Trong số mệnh của con định ra là không có duyên về hôn nhân, có phải là chưa trải qua cuộc sống của người thường thì vĩnh viễn không thành chính quả?

師:沒有的事。我們講了,自來你就能放棄這些東西,從形式上也放棄這些東西也行,我告訴你就是這個意思。就像那天我講吃肉問題,有的人就不吃肉,產生不產生這個狀態也不吃了,我說那也挺好,不吃就不吃了,不起這個執著。

Sư phụ: Không có chuyện đó. Chúng tôi giảng rồi, vốn dĩ chư vị đã có thể buông bỏ những thứ này, [thì] trên hình thức cũng buông những thứ ấy cũng được thôi; tôi nói với chư vị chính là ý này. Cũng giống như hôm nọ tôi giảng về vấn đề ăn thịt, có người chính là không ăn thịt, [nên dù] sinh ra trạng thái đó hay không thì cũng không ăn nữa; tôi nói như vậy cũng rất là tốt, không ăn thì không ăn nữa, không [cần] khởi chấp trước này.

弟子:我的五歲小孫子沒有煉功都看自己兩眉間上方有法輪在轉?

Đệ tử: Đứa cháu năm tuổi của con chưa luyện công [nhưng] cũng nhìn thấy chỗ phía trên giữa hai lông mày của mình có Pháp Luân đang xoay chuyển?

師:我剛才講了有許多煉功人,其實一走進這裏就是緣份。有的帶孩子來了,有許多小孩是有來頭的,都是要得這個法的。有些小孩根基相當好,該得的就得了。一人得法是全家受益。

Sư phụ: Tôi vừa giảng có rất nhiều người luyện công, thực ra hễ tiến vào đây thì chính là duyên phận. Có người mang con tới, có rất nhiều đứa trẻ là có lai lịch, đều là muốn đắc bộ Pháp này. Một số đứa trẻ căn cơ tương đối tốt, đáng được đắc gì thì sẽ đắc. Một người đắc Pháp là cả nhà thọ ích.

弟子:下午老師講課時,我看見體育大廳中央有倆個巨大的、看不見面孔的人站在那兒?

Đệ tử: Buổi chiều khi Thầy giảng Pháp, con nhìn thấy ở giữa đại sảnh nhà [thi đấu] thể dục thể thao có hai người khổng lồ, nhìn không thấy mặt đứng tại đó?

師:那是我的功身。

Sư phụ: Đó là công thân của tôi.

弟子:夢中見老師教我煉雙手沖灌?

Đệ tử: Trong mơ thấy Thầy dạy con luyện song thủ xung quán?

師:那就是我的法身教你煉功。

Sư phụ: Đó chính là Pháp thân của tôi dạy chư vị luyện công.

弟子:夜裏夢見煉法輪大法是否副意識?

Đệ tử: Ban đêm mơ thấy luyện Pháp Luân Đại Pháp có phải là phó ý thức?

師:你自己清清楚楚的知道你自己在那兒煉,那就是你的主意識煉了。

Sư phụ: Bản thân chư vị biết rất rõ ràng rằng bản thân chư vị ở đó luyện công, thì chính là chủ ý thức của chư vị luyện rồi.

弟子:有時我能忍住、控制住的事,心裏卻時常不平?

Đệ tử: Có lúc có những việc con có thể nhẫn được vững, khống chế được vững; nhưng trong tâm lại thường bất bình?

師:就是說你自己表面雖然能忍住,可是你心裏頭還沒放下,也不行。大家知道達到羅漢那個層次的人,遇到甚麼事都不放在心上,常人中的一切根本就不放在心上,總是樂呵呵的,吃了多大的虧人家也樂呵呵的。真能做到你已經達到羅漢初級果位了。

Sư phụ: Tức là mặc dù trên bề mặt chư vị có thể nhẫn được vững, nhưng trong tâm chư vị vẫn chưa buông xuống, vậy cũng không được. Mọi người biết rằng người đạt đến tầng thứ La Hán, gặp phải chuyện gì cũng không để trong tâm, hết thảy mọi thứ người thường hoàn toàn không để trong tâm, cứ cười ha ha thôi, chịu bao nhiêu thiệt thòi họ vẫn cười ha ha. Thật sự có thể làm được thì chư vị đã đạt đến quả vị sơ cấp của La Hán rồi.

弟子:煉法輪大法同時能否進行體育鍛練?

Đệ tử: Luyện Pháp Luân Đại Pháp có thể đồng thời rèn luyện thể dục không?

師:可以呀。你願練就練去吧,現在你甚麼都放下了,你不就修成了嗎?隨著你不斷煉功,有些事情你自己就會看淡的,叫你去幹你也不願去幹了。

Sư phụ: Có thể được. Chư vị muốn luyện thì cứ luyện; hiện giờ cái gì chư vị cũng buông xuống được, thì chẳng phải chư vị đã tu thành rồi sao? Cùng với việc chư vị không ngừng luyện công, có những việc tự chư vị sẽ coi nhẹ, bảo chư vị đi làm chư vị cũng không muốn làm nữa.

弟子:煉靜功時蚊子咬一下用手抓行嗎?

Đệ tử: Khi luyện tĩnh công muỗi cắn một cái mà dùng tay bắt có được không?

師:抓就抓了,但是最好別抓。正煉功時你一抓身上那氣機就亂了。實際這都屬於魔的干擾形式,不要管它,還業還不好嗎?

Sư phụ: Bắt thì bắt thôi, nhưng tốt nhất là đừng bắt. Đúng lúc luyện công chư vị hễ chộp bắt thì khí cơ trên thân kia là loạn rồi. Trên thực tế đó đều thuộc về về hình thức can nhiễu của ma; mặc kệ nó, hoàn nghiệp chẳng phải tốt sao?

弟子:煉法輪大法時能不能打太極拳?

Đệ tử: Khi luyện Pháp Luân Đại Pháp có được tập Thái Cực quyền không?

師:不能!太極拳就是氣功。不但太極拳是氣功,太極劍,還有八卦拳、形意拳這一類的都屬於氣功。那你說我就想練,那你就練它好了。我這裏講的是真正的對學員負責,提出要求。往高層次上修煉要專一。你說你就想練那個,我說你就去,你要真能修出來也好。不是非叫你修法輪大法,我只是告訴你一個專一的問題,很嚴肅的對待修煉的問題。太極拳也是不錯的,但是它的心法這一部份沒有傳出來,所以只能健身,不能修煉。

Sư phụ: Không được! Thái Cực quyền chính là khí công. Không chỉ Thái Cực quyền là khí công, mà Thái Cực kiếm, còn có Bát Quái quyền, Hình Ý quyền những loại này đều thuộc về khí công. Còn chư vị nói tôi cứ muốn luyện, vậy thì chư vị cứ việc luyện. Điều tôi giảng tại đây là thực sự chịu trách nhiệm với học viên, [mà] đề ra yêu cầu. Tu luyện lên tầng thứ cao phải chuyên nhất. Chư vị nói chư vị cứ muốn luyện thứ đó, tôi nói chư vị cứ việc, nếu chư vị thật sự có thể tu xuất lai thì cũng tốt. Không phải [tôi] nhất quyết bảo chư vị tu Pháp Luân Đại Pháp, tôi chỉ là nói với chư vị một vấn đề về chuyên nhất, đối đãi thật nghiêm túc với vấn đề tu luyện. Thái Cực quyền cũng không tệ, nhưng bộ phận tâm pháp của nó không hề được truyền ra, cho nên chỉ có thể khỏe thân, không thể tu luyện.

弟子:在最低層次開悟是不是能去法輪世界?

Đệ tử: Khai ngộ tại tầng thứ thấp nhất phải chăng có thể đến thế giới Pháp Luân?

師:低層次上開功,就是在很低層次上開功,他去不了法輪世界,也到不了更高層次上去,因為他就能修這麼高。

Sư phụ: Khai công tại tầng thứ thấp, tức là khai công tại tầng thứ rất thấp, thì họ không đến nổi thế giới Pháp Luân, cũng không lên nổi tầng thứ cao hơn, bởi vì họ chỉ có thể tu cao ngần ấy.

弟子:在工會工作免不了借用、人事調動怎麼辦?

Đệ tử: Công tác trong công đoàn không thể tránh khỏi việc vay mượn, điều động nhân sự thì làm thế nào?

師:各個階層中都能夠做好人,都能夠煉功。你做甚麼工作那是你常人中的工作。說按照你這個單位的規定去辦了,可能是你沒有甚麼錯,但處理問題時你要與人為善,儘量為別人著想。你就照這個大法去做。這些具體問題都問我,都要我跟你講,你還修甚麼?你悟甚麼呢?

Sư phụ: Tại các giai tầng đều có thể làm người tốt, đều có thể luyện công. Chư vị làm công tác gì thì cũng là công tác trong người thường của chư vị. Nói rằng chiểu theo quy định của đơn vị chư vị mà làm, có thể là chư vị không có gì sai, nhưng khi xử lý vấn đề chư vị phải thiện với người khác78, hết mực nghĩ cho người khác. Chư vị cứ chiểu theo Đại Pháp này mà làm. Cả những vấn đề cụ thể này cũng hỏi tôi, cũng cần tôi giảng cho chư vị, thì chư vị còn tu gì nữa? Chư vị còn ngộ gì nữa đây?

弟子:我的同事和家人都沒有參加過學習班,他們平時和老學員一起煉功可以嗎?

Đệ tử: Đồng nghiệp và người nhà của con đều chưa tham gia lớp học, bình thường họ cùng luyện công với các học viên cũ có được không?

師:把自己當作煉功人,到時該得的都能得到。你今天從學習班上下去你不把自己當作煉功人,你甚麼也得不到。

Sư phụ: Coi bản thân mình là người luyện công, tới lúc đáng được đắc thì đều có thể đắc được. Hôm nay chư vị từ lớp học bước ra mà chư vị không coi mình là người luyện công, thì chư vị cũng chẳng đắc được gì.

弟子:煉法輪大法哪些活動得禁止?哪些活動可以配合?

Đệ tử: Luyện Pháp Luân Đại Pháp thì những hoạt động nào phải cấm chỉ? Những hoạt động nào có thể phối hợp?

師:壞事你首先得禁止,就在常人中自然修煉,也不有意製造矛盾。對洪法有好處的可以配合。

Sư phụ: Việc xấu chư vị phải cấm chỉ trước tiên, cứ tu luyện một cách tự nhiên trong người thường, cũng không cố ý tạo ra mâu thuẫn. Những việc có lợi cho hồng Pháp thì có thể phối hợp.

弟子:廟裏做佛事是怎麼回事?

Đệ tử: Làm Phật sự79 trong chùa là chuyện như thế nào?

師:它是宗教形式,與我們沒有關係。

Sư phụ: Nó là hình thức tôn giáo, không có quan hệ gì với chúng ta.

弟子:煉到甚麼成度才能進入法輪世界?

Đệ tử: Luyện đến trình độ nào thì mới có thể tiến vào thế giới Pháp Luân.

師:修成。

Sư phụ: Tu thành.

弟子:煉法輪大法能跳迪斯科嗎?

Đệ tử: Luyện Pháp Luân Đại Pháp có thể nhảy disco không?

師:隨著你不斷提高的時候,你會覺的它越來越沒有意思。最後會發現這種舞帶有魔性。

Sư phụ: Cùng với việc chư vị không ngừng đề cao, chư vị sẽ cảm thấy nó càng ngày càng không có ý nghĩa. Cuối cùng sẽ phát hiện loại nhảy này mang theo ma tính.

弟子:有人在煉功中感覺到自己非常小?

Đệ tử: Có người trong khi luyện công cảm thấy mình vô cùng nhỏ bé?

師:是,有的人元神本來就很小,蹲在泥丸宮裏你會感覺很小。但這個身體又可以變大,有時候你感覺自己簡直頂天立地,這都是正常的。另外這空間的身體是可以變化的。

Sư phụ: Đúng vậy, có người nguyên thần vốn rất nhỏ, ngồi trong Nê Hoàn cung chư vị sẽ cảm thấy rất nhỏ. Nhưng cái thân thể này lại có thể biến lớn, có lúc chư vị cảm thấy bản thân mình quả thực đỉnh thiên lập địa80, đó đều là bình thường. Ngoài ra, thân thể trong không gian này là có thể biến hóa.

弟子:有些人因為一點小事發脾氣能長功嗎?

Đệ tử: Có những người vì một chút việc nhỏ mà nổi giận thì có thể tăng công không?

師:小事都過不去就發脾氣還想長功嗎?我們應該把自己當作煉功人。偶然你為點小事發點脾氣也不影響你,但是你老這樣也不行,你得提高。

Sư phụ: Cả chuyện nhỏ cũng không vượt qua được đã nổi giận mà còn muốn tăng công sao? Chúng ta nên coi mình là người luyện công. Ngẫu nhiên chư vị vì chút việc nhỏ mà bực mình một chút thì cũng không ảnh hưởng chư vị, nhưng chư vị cứ thế mãi thì không được, chư vị cần phải đề cao.

弟子:第四期《文藝之窗》與您的大法觀點是否一致?

Đệ tử: Kỳ số 4 của «Cửa sổ văn nghệ»81 có nhất trí với quan điểm Đại Pháp của Ngài không?

師:它不能夠跟我的法相提並論。我的法就是按照我講的這個內容,再沒有別的了。文藝之窗是站在文學、藝術的角度上去寫的東西。藝術它講源於生活高於生活,或者可以抓住哪個東西把它烘托一下,或者是用它的手法去表現。大家千萬不要照這個東西去煉,照這個東西指導那可不行。因為它是藝術作品,所以裏邊有虛構的東西。要修煉就按這個法指導。

Sư phụ: Nó là không thể ngang hàng bàn luận82 với Pháp của tôi. Pháp của tôi chính là chiểu theo nội dung mà tôi giảng, ngoài ra không còn gì khác. ‘Cửa sổ văn nghệ’ là thứ được viết từ góc độ văn học nghệ thuật. Nghệ thuật nó là nói bắt nguồn từ cuộc sống mà thổi phồng cuộc sống, hoặc là có thể nắm bắt thứ nào đó mà tô vẽ nó một chút, hoặc là dùng thủ pháp của nó mà biểu hiện. Mọi người nhất thiết không được luyện theo thứ này, chiểu theo chỉ đạo của thứ này thì không được đâu. Bởi vì nó là tác phẩm nghệ thuật, cho nên trong đó có những điều hư cấu. Muốn tu luyện thì hãy theo chỉ đạo của Pháp này.

弟子:你看過藏密佛經嗎?

Đệ tử: Ông đã đọc qua kinh Phật Tạng Mật83 chưa?

師:藏密我根本不看。漢地佛經我也不看的。

Sư phụ: Tạng Mật tôi hoàn toàn không đọc. Kinh Phật ở Hán địa tôi cũng không xem.

弟子:煉靜功時雙手結定印感覺臉和臂鬆不下來,是否可以不結印?

Đệ tử: Khi luyện tĩnh công hai tay kết định ấn thì cảm thấy mặt và cánh tay không thể thả lỏng, [hỏi] có thể không kết ấn [được] không?

師:兩臂鬆不下來是正常的,能量流在流轉過程中產生一種磁力就吸住了。你不結印哪行啊?該怎麼做就怎麼做,你不結印就產生不了這個能量流,這個能量流不通過怎麼演煉你和功呢?

Sư phụ: Hai tay không thể thả lỏng là bình thường thôi, dòng năng lượng trong quá trình lưu chuyển sẽ sản sinh ra một loại lực từ có thể hút chặt. Chư vị không kết ấn đâu có được? Nên làm thế nào hãy làm thế nấy, chư vị không kết ấn thì không thể sản sinh dòng năng lượng ấy. Dòng năng lượng ấy không thông thì làm thế nào diễn luyện chư vị và công đây?

弟子:過去氣功書怎麼處理為好?

Đệ tử: Sách khí công trước kia nên xử lý thế nào cho tốt?

師:你覺的怎麼處理為好就怎麼處理。我覺的那個魔把它徹底消除好。

Sư phụ: Chư vị cảm thấy xử lý thế nào tốt thì xử lý như thế nấy. Tôi cảm thấy về con ma kia cứ triệt để tiêu hủy thì tốt.

弟子:你代替某個某個佛做事嗎?

Đệ tử: Ông làm việc thay cho vị Phật nào đó phải không?

師:我有我的事情,他們有他們的事情,不是誰代替誰的。傳法度人這事沒有人能夠代替的。

Sư phụ: Tôi có việc của tôi, họ có việc của họ, không phải là ai thay thế ai. Việc truyền Pháp độ nhân này không có ai có thể thay thế được.

弟子:我在煉功時一個接著一個打呵欠?

Đệ tử: Trong khi con luyện công cứ ngáp [liên tục] hết cái này tới cái khác?

師:你的頭腦在調整過程當中造成的,或者在煉功中氣衝的很多的時候也會產生這個狀態,太正常了。

Sư phụ: Do não của chư vị đang trong quá trình điều chỉnh mà ra, hoặc là trong lúc luyện công khí xung rất nhiều thì cũng sẽ sinh ra trạng thái này, quá bình thường rồi.

弟子:在煉神通加持法中打手印小臂用力還是一條臂用力?

Đệ tử: Trong khi luyện Thần Thông Gia Trì Pháp đả thủ ấn thì cẳng tay dùng lực hay là cả cánh tay [đều] dùng lực?

師:打手印有個特點就是小臂帶動大臂。而道家功法往往是從武上來,他那個動作,往往是大臂帶動小臂。打手印是小臂帶動大臂,小臂在動,而它扭轉著大臂在動,所以在打手印時小臂是用一點力的。

Sư phụ: Đả thủ ấn có đặc điểm chính là cẳng tay dẫn động bắp tay84. Mà công pháp Đạo gia thông thường từ võ đi lên, động tác của họ, thông thường bắp tay dẫn động cẳng tay. Đả thủ ấn là cẳng tay dẫn động bắp tay, khi cẳng tay động, nó xoay chuyển khiến bắp tay động theo, cho nên khi đả thủ ấn thì cẳng tay sẽ dùng một chút lực.

弟子:睡覺時清楚並隨機而動做起動作,打起手印來我看挺好怎麼回事?

Đệ tử: Khi ngủ mơ một cách thanh tỉnh mà vận động tùy cơ85 mà làm ra động tác, đánh ra thủ ấn mà con thấy tốt lắm thì là chuyện gì?

師:就是起了歡喜心造成的。如果你做的動作不是我們法輪大法的動作,你趕快別做!這就是魔在干擾你,想給你往功裏加亂七八糟的東西想破壞你。所以我沒有教的動作你不要做。打大手印,我告訴你,你千萬不能做!你做了就是魔干擾你,調理你、害你,往裏加東西,你不要生出歡喜心來,這點你都把握不住。將來你看見那個高來高去的本事大的,你就跟他去了你也就完了。

Sư phụ: Chính là khởi tâm hoan hỷ tạo thành. Nếu như động tác mà chư vị làm không phải là động tác của Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi, thì chư vị hãy mau chóng đừng làm nữa! Đây chính là ma can nhiễu chư vị, muốn thêm những thứ loạn bát nháo vào trong công của chư vị để phá hoại chư vị. Cho nên những động tác mà tôi không dạy thì chư vị không được làm. Đả đại thủ ấn, tôi nói chư vị này, chư vị nhất quyết không được làm! Chư vị mà làm thì chính là ma can nhiễu chư vị, chỉnh chư vị, hại chư vị, thêm các thứ vào trong đó; chư vị không được sinh ra tâm hoan hỷ, điểm này mà chư vị cũng không giữ được vững. Tương lai chư vị nhìn thấy những vị có bản sự lớn cao thế nọ thế kia, chư vị mà đi theo họ thì chư vị cũng kết thúc rồi.

弟子:正果的涵義是甚麼?

Đệ tử: Hàm nghĩa của ‘chính quả’ là gì?

師:正果的涵義就是在正法中修煉達到了功成圓滿,就是得了正果了。正果是有果位之分的,羅漢果、菩薩果還有得佛果,都叫果位。

Sư phụ: Hàm nghĩa của ‘chính quả’ chính là tu luyện trong chính Pháp đạt được công thành viên mãn, đó là đã đắc được chính quả. Chính quả là có phân biệt về quả vị, La Hán quả, Bồ Tát quả còn có đắc Phật quả, đều gọi là ‘quả vị’.

弟子:在夢中或定中如何識別真假菩薩或者是真假法身?

Đệ tử: Trong mơ hoặc trong định làm thế nào phân biệt được Bồ Tát thật giả hoặc Pháp thân thật giả?

師:我的法身怎麼變化也不像,你仔細看它不像,變不了那麼像。實在不好識別還可以叫我的名。菩薩就很難說了。

Sư phụ: [Biến ra] Pháp thân của tôi thì có biến hóa thế nào cũng không giống, chư vị nhìn kỹ sẽ thấy nó không giống, không thể biến thành giống như vậy được. Nếu thực sự không dễ phân biệt quá thì có thể gọi tên tôi. [Về biến thành] Bồ Tát thì rất khó nói.

弟子:有的輔導站、輔導員之間鬧不團結?

Đệ tử: Có việc giữa trạm phụ đạo và phụ đạo viên gây chuyện không đoàn kết?

師:這種現象在我們法輪大法中好像不多。至於說輔導員間有點不同的看法問題,也是提高心性的機會。我們也沒有講團結不團結的名詞,我們都講修煉心性,修煉自己,誰做的不好是他個人的問題。誰跟人家發脾氣,誰說人家閒話,好壞都是自己,他不是修自己。凡是這樣做的他的心性就不好,最起碼在這一個問題上他就不行。

Sư phụ: Hiện tượng này trong Pháp Luân Đại Pháp chúng ta xem chừng không nhiều. Còn nói về vấn đề giữa các phụ đạo viên có chút quan điểm bất đồng, thì cũng là cơ hội đề cao tâm tính. Chúng ta cũng không giảng danh từ đoàn kết hay không đoàn kết, chúng ta chỉ giảng tu luyện tâm tính, tu luyện bản thân, ai làm không tốt thì là vấn đề của cá nhân họ. Ai nổi nóng với người khác, ai buôn chuyện về người khác, thì tốt xấu đều là [do] bản thân mình, họ không phải là tu bản thân. Phàm đã làm như vậy thì tâm tính của họ không tốt, tối thiểu thì về vấn đề này thì họ không đạt.

弟子:我是老學員在這次班上突然有一種力量想讓我放棄法輪大法,也確實使我產生了不好的念頭?

Đệ tử: Con là học viên cũ, ở lớp học lần này đột nhiên có một sức mạnh muốn bắt con từ bỏ Pháp Luân Đại Pháp, cũng xác thực khiến con sản sinh niệm đầu bất hảo?

師:那就說明你戰勝了它。凡是產生這種情況之前之後,一定要堅定大法修煉,分清自己,是思想業和附體幹的。只要分清那不是自己,我的法身就會幫你清理。

Sư phụ: Điều đó nói lên rằng chư vị đã chiến thắng nó. Phàm là trước và sau khi nảy sinh tình huống loại này, nhất định phải kiên định tu luyện Đại Pháp, phân rõ bản thân, [rằng kia] là nghiệp tư tưởng và phụ thể làm. Chỉ cần phân rõ đó không phải là bản thân mình, thì Pháp thân của tôi sẽ giúp chư vị thanh lý.

弟子:集體煉功、個人煉功效果是否一樣?

Đệ tử: Luyện công tập thể, [và] luyện công cá nhân thì hiệu quả có như nhau không?

師:一樣!集體煉功主要是大家在一起互相切磋切磋,提高快一些,也會增強你煉功的那個興致有好處。單獨煉、閉門煉,自己好像閉塞一些,就是這樣,其實都是一樣的。

Sư phụ: Như nhau! Luyện công tập thể chủ yếu là mọi người cùng nhau chia sẻ thảo luận, đề cao nhanh hơn, cũng sẽ tốt cho việc tăng cường hứng thú luyện công của chư vị. Luyện đơn độc, đóng cửa mà luyện, bản thân dường như sẽ bế tắc một chút, chính là như vậy, kỳ thực đều như nhau.

弟子:煉功不被人理解是否能我行我素?

Đệ tử: Người luyện công không được người khác lý giải phải chăng là có thể muốn gì làm nấy không?

師:你最起碼叫人家理解,老是表現的非常超常不行,得注意這個問題。在常人中你還得注意跟常人一樣,表面上人與人之間無差別。只是自己內心在修煉,在提高你自己。

Sư phụ: Tối thiểu chư vị phải để người ta lý giải, cứ luôn biểu hiện vô cùng siêu thường thì không được, phải chú ý vấn đề này. Trong người thường chư vị vẫn phải chú ý [sao cho] giống như người thường, trên bề mặt giữa người với người là không có sai khác. Chỉ là trong nội tâm của mình đang tu luyện, đang đề cao bản thân chư vị.

弟子:疊扣小腹時兩手相碰是否減功?

Đệ tử: Khi điệp khấu tiểu phúc hai tay chạm vào nhau thì có giảm công không?

師:手不要碰上。不會減功,但是容易亂了機。你煉功是加強氣機。

Sư phụ: Tay không được chạm vào nhau. Sẽ không giảm công, nhưng dễ làm loạn bộ cơ. Chư vị luyện công là để gia cường khí cơ.

弟子:打坐後精神顯的不安,性格有一些孤僻?

Đệ tử: Sau khi đả tọa tinh thần tỏ ra bất an, tính cách có đôi chút cô tịch?

師:凡是出現這種情況的時候,堅定大法的修煉,你要把握好自己。同時分清自己和思想業。

Sư phụ: Hễ khi xuất hiện tình huống này, [hãy] kiên định tu luyện Đại Pháp, chư vị phải giữ vững bản thân cho tốt. Đồng thời phân rõ bản thân mình và nghiệp tư tưởng.

弟子:煉法輪大法後經過一個階段感到腿越來越硬甚麼原因?

Đệ tử: Sau khi luyện Pháp Luân Đại Pháp trải qua một giai đoạn [con] cảm thấy chân ngày càng cứng là do nguyên nhân gì.

師:有兩種情況,一個是我們的學員在煉功的時候做了錯事了;一個是長期只煉功沒有按照煉功人的標準做,心性上不去,都會出現這個情況。凡是煉功中發現自己退步了,甚麼地方不對勁了,你都從心性上找保證你會發生變化。

Sư phụ: Có hai tình huống, một là học viên của chúng ta khi đang luyện công đã làm sai điều gì; một nữa là trường kỳ chỉ luyện công mà không làm theo tiêu chuẩn của người luyện công, tâm tính không lên được, đều sẽ xuất hiện tình huống này. Phàm là trong luyện công phát hiện mình thụt lùi, chỗ nào đó không đúng đắn, thì chư vì hãy từ tâm tính mà tìm đảm bảo chư vị sẽ phát sinh biến hóa.

弟子:人的做思想鬥爭是主意識還是副意識?

Đệ tử: Đấu tranh tư tưởng của người là chủ ý thức hay phó ý thức?

師:副意識、人的各種觀念和思想業、附體都會出現鬥爭,但一般修煉人大多是你自己的觀念。你自己的觀念和思想業在被消去時會鬥爭,這樣不好那樣不好,是你自己思想中產生的狀態。

Sư phụ: Phó ý thức, các chủng quan niệm và nghiệp tư tưởng của người, phụ thể đều sẽ xuất hiện tranh đấu, nhưng người tu luyện thông thường thì đa số là [do] quan niệm của bản thân chư vị. Khi quan niệm và nghiệp tư tưởng bản thân chư vị bị tiêu đi thì sẽ tranh đấu, thế này không tốt thế kia không tốt, là trạng thái sinh trong tư tưởng của chư vị.

弟子:性格是主元神決定的還是父母性格遺傳的?

Đệ tử: Tính cách là chủ nguyên thần quyết định hay là di truyền từ tính cách của cha mẹ?

師:人的性格與你父母有直接關係,你的元神他起主導作用。但是你父母所帶的這個東西也起到一定作用。

Sư phụ: Tính cách của người ta có quan hệ trực tiếp với cha mẹ chư vị, nguyên thần của chư vị khởi tác dụng chủ đạo. Nhưng những thứ cha mẹ chư vị mang tới cũng khởi tác dụng nhất định.

弟子:《文藝之窗》「神通大法」一文是否師父同意印發的?

Đệ tử: Bài “Thần thông Đại Pháp” trong «Cửa sổ văn nghệ» có phải Sư phụ đồng ý in phát hành không?

師:沒經過審稿,沒和我打招呼。這些東西只是文藝作品,你不要管它,它只是一種故事形式。將來必要的時候,我可以把我的修煉過程和我做的這些事情寫一個傳記留給大家。現在還不行,機緣不成熟,因為有些東西很高,寫出來一般人接受不了。

Sư phụ: Không qua thẩm duyệt bản thảo, [cũng] không hỏi han tôi. Những thứ này chỉ là tác phẩm văn nghệ, chư vị kệ nó, nó chỉ là một hình thức kể chuyện. Tương lai khi cần thiết, tôi có thể đem quá trình tu luyện của tôi và những việc tôi làm này viết thành một truyện ký lưu lại cho mọi người. Hiện giờ vẫn chưa được, cơ duyên chưa chín muồi, bởi vì một số điều rất cao, viết ra người bình thường không tiếp thụ nổi.

弟子:如何看待出於生活需要炒股票?

Đệ tử: Nhìn nhận thế nào về việc vì sinh sống mà đầu cơ cổ phiếu?

師:你做點生意多好,炒股票就是賭,是在拿別人的錢。炒股票有的傾家蕩產的,你知道是甚麼滋味嗎?修煉人絕不能幹這些,那心怎麼修啊!還有打麻將,打麻將能不能打,你還不如跟我說,老師我賭博行不行。煉功人怎麼去衡量你這個心性,你自己照這個大法去做了嗎?

Sư phụ: Chư vị kinh doanh một chút thì tốt hơn, đầu cơ cổ phiếu chính là đánh bạc, là lấy tiền của người khác. Có người chơi cổ phiếu khuynh gia bại sản, chư vị có biết đó là mùi vị gì không? Người tu luyện tuyệt đối không được làm những chuyện này, tâm đó tu thế nào đây! Còn chơi mạt chược nữa, ‘có thể chơi mạt chược không’, chư vị chẳng bằng nói với tôi, rằng ‘Thầy ơi con đánh bạc có được không’. Người luyện công làm thế nào đo lường tâm tính của chư vị, bản thân chư vị có chiểu theo Đại Pháp này mà làm không?

弟子:有個煉功人說我本命是狐狸,煉功老想到狐狸?

Đệ tử: Có người luyện công nói bản mệnh của con là cáo, [khi] luyện công [con] cứ nghĩ đến cáo?

師:你別聽他這樣說,很可能他是狐狸的附體,他說你是甚麼你就是甚麼啦?告訴大家,你的元神前世是甚麼都無關緊要。你今生今世能夠修煉是今生今世的事,等你修煉到一定成度的時候,你的這些不好的東西都退掉了,這些信息都退掉了,沒有關係的。我們今天講這個法講到這一步告訴大家,人轉人沒有多少,六道中輪迴那就是這樣的。

Sư phụ: Chư vị đừng nghe họ nói như vậy, rất có thể họ là cáo phụ thể; họ bảo chư vị là gì thì chư vị là đó sao? [Tôi] nói mọi người này, đời trước nguyên thần của chư vị là gì cũng không quan trọng. Đời này chư vị có thể tu luyện thì là chuyện của đời này, đến khi chư vị tu luyện tới một trình độ nhất định, những thứ bất hảo kia của chư vị đều sẽ thoái lui hết, những tín tức này đều sẽ thoái lui hết, không hề gì. Hôm nay tôi giảng Pháp giảng tới bước này [tôi] bảo mọi người rằng, từ người chuyển sinh thành người không có bao nhiêu, luân hồi trong lục đạo nó chính là như vậy.

弟子:去寺院買回黃布印的避邪符可以嗎?

Đệ tử: Đi chùa mua về bùa trừ tà in trên vải vàng có được không?

師:大多那本身就是邪的,家裏邊怎麼能供這些東西哪?甚麼避邪呀?末法時期廟裏邊也很亂。釋迦牟尼可不教弟子幹這些有為的亂法之事。有的和尚身上也是帶附體的,為了賺錢賣給你的。如果他那東西是帶附體的怎麼辦。

Sư phụ: Đại đa số bản thân [chúng] chính là tà, trong nhà sao có thể cúng những thứ này? Trừ tà gì chứ? Thời kỳ mạt Pháp trong chùa còn rất loạn. Thích Ca Mâu Ni không hề dạy đệ tử làm những chuyện loạn Pháp hữu vi này. Có hòa thượng trên thân cũng có mang phụ thể; vì kiếm tiền mà bán cho chư vị. Nếu thứ đó có mang theo phụ thể thì làm thế nào?

弟子:老師給的法輪和自己煉出來的有甚麼區別?

Đệ tử: Pháp Luân mà Thầy cấp cho và [Pháp Luân] mà bản thân luyện ra có khác biệt gì?

師:你暫時還煉不出來,你還得自個去好好修。功成圓滿時你才有自己的。

Sư phụ: Tạm thời chư vị chưa thể luyện ra được, chư vị vẫn phải tự mình tu cho tốt. Khi công thành viên mãn chư vị mới có cái của mình.

弟子:禪宗的觀心方法對入靜有幫助嗎?

Đệ tử: Phương pháp quán tâm của Thiền tông có giúp gì cho việc nhập tĩnh không?

師:那你就修煉禪宗去了。我們告訴你甚麼也不想,按我們的修煉方法修煉,很多修煉方法是副意識修煉的。禪宗慧能以後,修法就亂了,越來越極端,越來越雜,上邊都不承認的了。你怎麼還按禪宗的修煉呢?宗教中任何一門都不能互相干擾,不互相摻著修,講不二法門的,你怎麼到現在我講到今天你還有這個問題呢?這樣做怎麼行哪?

Sư phụ: Vậy chư vị đã sang tu luyện Thiền tông rồi. Chúng tôi bảo chư vị không nghĩ gì cả, chiểu theo phương pháp tu luyện của chúng tôi mà tu luyện; rất nhiều phương pháp tu luyện là phó ý thức tu luyện. Thiền tông từ thời Huệ Năng về sau, pháp tu đã loạn rồi, càng ngày càng cực đoan, càng ngày càng tạp, bên trên đều không thừa nhận [nó] nữa. Chư vị vẫn chiểu theo Thiền tông mà tu luyện là sao? Trong tôn giáo bất kể môn nào cũng không thể can nhiễu lẫn nhau, không thể trộn lẫn nhau mà tu, [đều] giảng ‘bất nhị pháp môn’; chư vị lẽ nào đến bây giờ [khi mà] tôi giảng đến hôm nay rồi chư vị vẫn còn hỏi câu này là sao? Làm như vậy làm sao được?

弟子:如果有人法輪變形了應該怎麼辦?

Đệ tử: Nếu có người Pháp Luân bị biến dạng thì nên làm thế nào?

師:大多數法輪變形了,他就不能再煉了。因為從某種意義上講他是做了壞事,做了大壞事。但有一部份,過去有法輪變形調整過來的,凡是這樣調整過來的和我給下的法輪都不一樣了。給你下的幾乎是形成法輪的這種機,你自己慢慢去修吧,不能老給你那還了得。隨著你煉功他也能形成,可是你要自己多付出。

Sư phụ: Đại đa số [nếu] Pháp Luân biến dạng, thì họ không thể luyện tiếp được nữa. Bởi vì từ một nghĩa nào đó mà giảng thì họ là đã làm chuyện xấu, đã làm chuyện rất xấu. Nhưng có một bộ phận, trước kia có người Pháp Luân biến dạng mà điều chỉnh lại được, phàm là những cái điều chỉnh lại và Pháp Luân mà tôi cài cho thì đều không giống nhau. Thứ cài cho chư vị hầu như là loại cơ để hình thành Pháp Luân, chư vị dần dần tự mình mà tu, không thể cứ mãi cấp cho chư vị thế sao được. Tùy theo việc chư vị luyện công, Nó cũng có thể hình thành, nhưng chư vị phải tự mình phó xuất nhiều.

弟子:有時在煉功中感到大地在旋轉?

Đệ tử: Có lúc khi luyện công cảm thấy mặt đất đang xoay chuyển.

師:正常的,山搖地動都是正常的,可是你的肉身沒動。

Sư phụ: Bình thường thôi, núi long đất lở cũng đều là bình thường, nhưng nhục thân của chư vị thì không động.

弟子:天目開到天眼層次能看到法輪嗎?

Đệ tử: Thiên mục khai mở tới tầng Thiên nhãn thì có thể thấy được Pháp Luân không?

師:看不到。都得在慧眼層次中,所以我給你開到慧眼層次。因為法輪在另外空間存在的。

Sư phụ: Không thấy được. Đều phải ở tại tầng Huệ nhãn, cho nên tôi khai mở cho chư vị tới tầng Huệ nhãn. Bởi vì Pháp Luân là tồn tại ở không gian khác.

弟子:我們原來練某某功對法輪大法有沒有影響?

Đệ tử: Chúng con vốn trước kia luyện công gì đó liệu có ảnh hưởng tới Pháp Luân Đại Pháp không?

師:原來練甚麼功都沒有關係,你在我這個場上已經給你調整過了。真正是修煉大法的,就是你沒有經過學習班我親自調整的,在法輪大法煉功點上真正修煉,也同樣能得到調整。

Sư phụ: Vốn trước kia luyện công nào cũng không hề gì, chư vị ở trong trường này của tôi thì đã điều chỉnh lại cho chư vị rồi. [Ai] chân chính tu luyện Đại Pháp, ngay cả chư vị chưa từng tham gia lớp học được tôi đích thân điều chỉnh, mà chân chính tu luyện tại điểm luyện công của Pháp Luân Đại Pháp, thì cũng có thể được điều chỉnh như nhau.

弟子:我平時好給別人按摩頭,治頭痛病?

Đệ tử: Bình thường con hay xoa bóp đầu cho người khác, để trị bệnh đau đầu?

師:我講了煉功人的標準,你覺的作為煉功人怎麼做好你就怎麼做,治病就不是我弟子。

Sư phụ: Tôi đã giảng tiêu chuẩn của người luyện công, chư vị cảm thấy là người luyện công làm thế nào cho tốt thì làm thế nấy; trị bệnh thì không phải là đệ tử của tôi.

弟子:在學習班期間打坐看到老師的法身和其它景象,學習班後就看不到了,是老師法身走了嗎?

Đệ tử: [Khi] đả tọa trong thời gian tại lớp học [con] nhìn thấy Pháp thân của Thầy và những cảnh tượng khác, sau lớp học thì không thấy nữa, có phải Pháp thân của Thầy đã đi rồi không?

師:你在這個場上你心態非常好,達到了一定標準。你下去之後你就放鬆了,還得那樣勇猛精進往上修。但是天目在修復時也看不到,也可能為了去你的執著心而做的。

Sư phụ: [Khi] chư vị ở trong trường này tâm thái của chư vị tốt phi thường, đã đạt tới một tiêu chuẩn nhất định. Sau khi đi chư vị liền buông lơi, [chư vị] vẫn phải dũng mãnh tinh tấn tu lên như thế. Nhưng khi thiên mục đang hồi phục thì cũng không nhìn thấy, cũng có thể vì để trừ bỏ tâm chấp trước của chư vị mà làm vậy.

弟子:我想寫一部關於您和法輪大法的書,請大師允許……?

Đệ tử: Con muốn viết một bộ sách về Ngài và Pháp Luân Đại Pháp, thỉnh Đại Sư cho phép…?

師:我不喜歡別人寫我,我就是傳這個法叫大家學法。

Sư phụ: Tôi không thích người khác viết về tôi, tôi chỉ là truyền Pháp này để mọi người học Pháp.

弟子:我是一名醫生學過針灸,可以用針灸治病嗎?

Đệ tử: Con là bác sỹ đã từng học châm chứu, có thể dùng châm cứu trị bệnh không?

師:中醫、西醫治病那是正常的。我講是不讓用功看病。

Sư phụ: Trung Y, Tây Y chữa bệnh đó là bình thường. Tôi giảng là không được dùng công để khám bệnh.

弟子:我女兒十一歲沒參加過學習班,以前有病,學習不好,我通過學習班孩子的病已經好了,可是脾氣一點沒改?

Đệ tử: Con gái con mười một tuổi chưa từng tham gia lớp học, trước kia có bệnh, học tập không tốt, con thông qua lớp học thì bệnh của con gái đã khỏi rồi, nhưng tính nết lại không hề thay đổi?

師:這得教教孩子,給她講講我講過的這個道理。十一歲可以學法了。

Sư phụ: Vậy phải dạy bảo trẻ nhỏ, giảng cho nó đạo lý mà tôi đã giảng. Mười một tuổi là có thể học Pháp rồi.

結束語

Lời kết

沒有更多的要講了,因為我覺的該講的也都講了。我們本次學習班,有些東西是在前幾次學習班中沒有講的東西我們在這次都講了。主要是我想哪,我傳這個功的時間基本上就是結束了,所以想要把真正的東西都給大家留下來,以便大家在今後的修煉過程中,有這個功和法來指導大家。在整個傳功過程當中,我們也是本著對大家負責,同時也是對社會負責,這樣我們才能收到一個很好的效果。實際上我們也是本著這樣一個原則在做。至於做的好與壞我也不想講了,因為做的好壞,我做的怎麼樣,對大家負不負責任,在座的自有公論,所以我不再講這些事情了。當然我的願望就是想要把這個東西傳出來,叫我們更多的人能夠受益,真正的能夠想修煉的,有法能夠往上修煉。同時在傳法過程當中,我也講出了作為一個人,應該怎樣做人的道理。也希望在我們這個學習班上下去不能夠按照大法修煉的人,最起碼也要做一個好人,其實你已經會做一個好人,我知道。就是你在這兒不想修煉,下去之後你也一定會做一個好人,這樣對我們社會也是有利的。

Không còn gì thêm cần giảng, vì tôi cảm thấy những gì cần giảng đều giảng rồi. Lớp học của chúng ta lần này, một số điều là những điều chưa giảng trong mấy khóa học trước thì chúng tôi đều đã giảng ở lần này. Chủ yếu là tôi nghĩ rằng, thời gian tôi truyền công đây về cơ bản là kết thúc rồi, cho nên muốn đem những thứ chân chính lưu lại cả cho mọi người, sao cho mọi người sau này trong quá trình tu luyện, có công và Pháp này chỉ đạo mọi người. Trong toàn bộ quá trình truyền công, chúng tôi cũng là theo [nguyên tắc] có trách nhiệm với mọi người, đồng thời cũng có trách nhiệm với xã hội, như vậy chúng tôi mới có thể thu được hiệu quả thật tốt. Trên thực tế chúng tôi cũng theo nguyên tắc ấy mà làm. Còn như làm được tốt xấu thế nào thì tôi cũng không muốn nói nữa, bởi vì làm được tốt hay dở, tôi làm như thế nào, có chịu trách nhiệm với mọi người hay không, những người ngồi tại đây tự có công luận, cho nên tôi không giảng những sự việc này nữa. Đương nhiên nguyện vọng của tôi chính là muốn đem thứ này truyền xuất ra, để chúng ta càng nhiều người hơn nữa có thể thọ ích, những người thật sự có thể muốn tu luyện, thì có Pháp có thể tu luyện lên trên. Đồng thời trong quá trình truyền Pháp, tôi cũng giảng ra đạo lý đã là con người, thì nên làm người như thế nào. Cũng mong những người từ lớp học này trở về nếu không thể chiểu theo Đại Pháp mà tu luyện, thì ít nhất cũng hẳn là làm người tốt, kỳ thực chư vị đã biết làm người tốt, tôi biết. Dù tại đây chư vị không muốn tu luyện, thì sau khi ra về chư vị cũng nhất định sẽ làm một người tốt, vậy cũng sẽ có ích cho xã hội chúng ta.

在傳功傳法過程當中,當然也有不順利的,方方面面的干擾也很大。但在濟南辦班,由於咱們這個主辦單位和咱們這個體育館的領導們、省市氣功協會的方方面面領導大力支持,使我們這個班辦的比較圓滿。在辦班當中,我講過的這些東西全部都是指導大家煉功的,指導往高層次上修煉的。在過去講法當中沒有人講這些東西。甚至於我們有些人,可能你不管承認也好不承認也好,我們今天講的東西是非常明確的,是結合著現代科學和現在的人體科學講的。不像有些過去講的含糊其辭的東西。我們這裏已經講的很明瞭,而且層次講的很高。這樣呢,主要是為了大家,是讓你修煉,將來能夠真正的提高層次修煉上去,這是我的出發點。

Trong quá trình truyền công truyền Pháp, đương nhiên cũng có những điều không thuận lợi, can nhiễu trên mọi phương diện cũng rất lớn. Nhưng mở lớp tại Tế Nam, nhờ đơn vị tổ chức chúng ta và các vị lãnh đạo của nhà thể dục chúng ta đây, các vị lãnh đạo trên mọi phương diện của Hiệp hội khí công tỉnh thành phố đã ủng hộ rất lớn, khiến cho lớp học này của chúng ta khá viên mãn. Trong quá trình mở lớp, những điều tôi giảng đây toàn bộ đều là để chỉ đạo mọi người luyện công, chỉ đạo tu luyện lên tầng thứ cao. Trong quá khứ giảng Pháp không có ai giảng những điều này. Thậm chí chúng ta có những người, bất kể chư vị có thể thừa nhận cũng vậy, không thừa nhận cũng vậy, những điều chúng tôi giảng hôm nay là vô cùng minh xác, kết hợp khoa học hiện đại và khoa học nhân thể hiện nay mà giảng. Không giống như những thứ từ ngữ hàm hồ được giảng trước kia. Tại đây chúng tôi đã giảng rất rõ ràng rồi, hơn nữa tầng thứ giảng rất cao. [Làm] như vậy, chủ yếu là vì mọi người, là để chư vị tu luyện, tương lai có thể thật sự đề cao tầng thứ tu luyện lên trên, đó là xuất phát điểm của tôi.

我們在傳功過程當中,很多人覺的法也是很好,可是做起來很難。其實我說難與不難看甚麼人去講。一個普普通通的常人不想修煉,他會講,他會覺的修煉法輪大法簡直太難了,不可思議,修不成。他是個常人,他不想修煉他會看的很難。真正修煉的人,在我來說這是很容易的,不是甚麼高不可攀的東西。其實我們在座有許多老學員,還有沒有來的老學員,已經修煉到相當高的層次上去了。我沒有跟你們講這些,主要是怕你們產生執著心,沾沾自喜,會嚴重影響你們功力上長。因為作為一個真正有決心修煉的人,他能夠忍受的住,能夠在各種利益面前,能夠放下那個執著心,能夠把它看的很淡,其實我說只要能做到這一點,人就覺的很難了。所謂說難的人,就是他放不下這些東西。修煉功法本身並不難,提高層次本身並沒有甚麼難的,就是人的心放不下他才說難的。因為在現實利益當中很難把它放下,這利益已經在這兒,你說這顆心他怎麼放的下?他認為難實際上也就是難在這裏。我們在人與人之間發生矛盾的時候,忍不下,忍不了這口氣,甚至於不能把自己當作煉功人去對待,我說這就不行。其實我們作為一個煉功人,不妨試一試。我過去修煉的時候有許多高人也跟我講過這樣的話,就是別看這個事情你覺的很難,難忍能忍。你看不行,難行可是能行。其實也是這樣,不妨大家回去試一試。在真正的劫難當中或者過關當中,你試一試,難忍就忍一忍,看著不行,難行,那麼你就試一試看,到底行不行?如果你真正做到的話,你發現真是柳暗花明又一村。

Trong quá trình chúng tôi truyền công, rất nhiều người cảm thấy Pháp cũng rất tốt, nhưng bắt đầu làm thì rất khó. Kỳ thực tôi nói rằng khó hay không khó là xem người nào nói. Một người thường rất đỗi bình thường không muốn tu luyện, họ sẽ nói, họ sẽ cảm thấy tu luyện Pháp Luân Đại Pháp quả thực khó quá rồi, không thể nghĩ bàn, tu không thành. Họ là người thường, họ không muốn tu luyện họ sẽ thấy rất là khó. Những người tu luyện chân chính, để tôi nói thì nó rất dễ dàng, không phải thứ gì cao không thể với tới. Kỳ thực có rất nhiều học viên cũ chúng ta ngồi tại đây, còn có những học viên cũ không tới [đây], đã tu luyện lên đến tầng thứ tương đối cao rồi. Tôi không nói với chư vị những điều này, chủ yếu [vì] e rằng chư vị sinh tâm chấp trước, hiu hiu tự đắc, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc công lực chư vị tăng trưởng lên. Bởi vì làm một người thực sự có quyết tâm tu luyện, họ có thể nhẫn chịu được vững, có thể với lợi ích các loại trước mặt, [mà] có thể buông bỏ tâm chấp trước kia, có thể coi nó rất nhẹ; kỳ thực tôi nói rằng chỉ cần có thể làm được điểm này, thì người ta đã cảm thấy rất khó rồi. Những người nói là khó, chính là [vì] họ không thể buông bỏ những thứ ấy. Bản thân công pháp tu luyện không hề khó, bản thân việc đề cao tầng thứ cũng không khó gì cả, chính là không buông bỏ được nhân tâm nên họ mới nói là khó. Bởi vì đang trong lợi ích hiện thực thì rất khó buông nó xuống, lợi ích kia đã đang ở đó, chư vị nói xem cái tâm này họ vứt bỏ sao đây? Họ cho rằng khó thực tế cũng chính là khó tại chỗ này. Khi chúng ta phát sinh mâu thuẫn giữa người với người, không nhẫn được, không nhẫn được cái khẩu khí kia, thậm chí không thể coi mình là người luyện công mà đối đãi, tôi nói vậy là không được. Kỳ thực chúng ta làm người luyện công, không ngại gì thì hãy thử xem. Trước kia thời tôi tu luyện có rất nhiều cao nhân cũng từng nói với tôi lời thế này, chính là chớ thấy rằng việc này chư vị cảm thấy rất khó, ‘nan nhẫn năng nhẫn’. Chư vị thấy không được, khó làm được nhưng mà ‘nan hành năng hành’. Thực ra cũng là như thế, không ngại mọi người trở về thử xem. Khi thực sự đang trong kiếp nạn hoặc là trong khi vượt quan, chư vị hãy thử xem, khó nhẫn thì cứ nhẫn xem, thấy là không làm được, khó thành được, vậy thì chư vị cứ thử xem sao, rốt cuộc có làm được không? Nếu chư vị thật sự có thể làm được, chư vị sẽ phát hiện rằng đúng là ‘liễu ám hoa minh hựu nhất thôn’86.

不想說的太多了,因為我講的也很多了。講的太多大家也很難記的住了。希望大家能夠在今後修煉當中把自己當作一個煉功人看,真正修煉自己。所以我希望在座的新老學員,都能夠在大法中修煉,都能夠功成圓滿!我們這次學習班結束了,希望大家回去抓緊時間實修!就講這麼多。

[Tôi] không muốn nói quá nhiều nữa, bởi vì tôi giảng cũng rất nhiều rồi. Giảng quá nhiều thì mọi người cũng rất khó nhớ kỹ được. Hy vọng mọi người sau này trong tu luyện có thể coi mình là một người luyện công mà nhìn nhận, chân chính tu luyện bản thân. Cho nên tôi mong các học viên mới và cũ ngồi tại đây, đều có thể tu luyện trong Đại Pháp, đều có thể công thành viên mãn! Lớp học này của chúng ta đã kết thúc, hy vọng mọi người về nhà tận dụng thời gian thực tu! Giảng bấy nhiêu thôi.

* * * * * * * * *

Giải đáp thắc mắc tại giảng Pháp ở Diên Cát

延吉講法答疑

Giải đáp thắc mắc tại giảng Pháp ở Diên Cát

李洪志

Lý Hồng Chí

弟子:天生能盤上腿與根基好壞有無關係?

Đệ tử: Bẩm sinh đã có thể ngồi song bàn thì có quan hệ với căn cơ tốt xấu hay không?

師:這個沒有太大關係,也不能說絕對沒有,原因很複雜。長期勞動或從來不盤腿,盤起來就很難過。

Sư phụ: Điều này không có quan hệ lớn lắm, nhưng cũng không thể nói là tuyệt đối không có, nguyên nhân rất phức tạp. Lao động trường kỳ hoặc chưa từng ngồi song bàn, thì bắt đầu xếp bằng sẽ rất khó chịu.

弟子:元始天尊是宇宙中最高的覺者嗎?

Đệ tử: Nguyên Thủy Thiên Tôn là Giác Giả cao nhất trong vũ trụ phải không?

師:其實這都是常人的思想方式,本身就帶有不敬。功比如來還高一點吧,不是最大的神。

Sư phụ: Kỳ thực đây toàn là phương phức tư tưởng của người thường, ngay bản thân [nó] có mang theo sự bất kính. [Ông có] công cao hơn Như Lai một chút, không phải là Thần lớn nhất.

弟子:宇宙還是以真、善、忍為真理的嗎?

Đệ tử: Vũ trụ vẫn là lấy Chân-Thiện-Nhẫn làm chân lý phải không?

師:宇宙就是真、善、忍這種特性的,越高層次上體現越明顯。

Sư phụ: Vũ trụ chính là chủng đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn này, trên tầng thứ càng cao thì thể hiện càng rõ ràng.

弟子:修到自己根基等因素註定的層次後,如果還想往上修是否還要在常人中繼續修煉?

Đệ tử: Sau khi tu tới tầng thứ vốn định trước bởi các nhân tố như căn cơ của tự thân, nếu vẫn còn muốn tu lên trên phải chăng vẫn phải tiếp tục tu luyện trong người thường?

師:對。在別的地方你是修不了的,只有在常人這個狀態中是最容易修的。而在其它層次中他也不是不能修。但是,舉個例子說吧,就是他沒有苦吃所以他就修的很慢,甚至於不能修。沒有提高他心性這樣的機會和環境,就使他不能修。那個高層次上人與人、生命與生命之間那真是沒有矛盾的,而且都是大自在的。你說他怎麼修啊,就非常難。

Sư phụ: Đúng vậy. Tại nơi khác chư vị không thể tu, chỉ có ở trạng thái người thường này là dễ tu nhất. Còn tại những tầng thứ khác họ cũng không phải là không thể tu. Nhưng mà, nói ví dụ thế này nhé, chính là vì họ không có khổ mà chịu cho nên họ tu rất chậm, thậm chí không thể tu. Không có cơ hội và hoàn cảnh như thế này đề cao tâm tính của họ, nên khiến họ không thể tu. Giữa người với người, sinh mệnh với sinh mệnh tại tầng thứ cao đó quả thực không có mâu thuẫn, hơn nữa đều là đại tự tại87. Chư vị nói xem họ tu thế nào đây, vô cùng khó khăn.

弟子:在本門中修得圓滿後是否要經歷佛那個狀態的生老病死?

Đệ tử: Trong bổn môn [chúng ta] sau khi tu viên mãn phải chăng là sẽ trải qua trạng thái ‘sinh lão bệnh tử’ của Phật?

師:甚麼佛那個狀態的生老病死?我告訴大家,在很高層次上它也存在著一種叫作成住壞這樣一種因素,我也是講了它與生老病死有關係,那是在他們自己同等層次上體現的。但是那是遙遠的、不可思議的、比天文數字還要大的那樣一個年代的數字,你就根本無需去管它了。

Sư phụ: Trạng thái ‘sinh lão bệnh tử’ của Phật gì chứ? Tôi bảo mọi người này, ở tầng thứ rất cao nó cũng tồn tại một loại nhân tố thế này, gọi là ‘thành trụ hoại’, tôi cũng đã giảng rằng giữa nó và ‘sinh lão bệnh tử’ là có quan hệ, đó chính là thể hiện tại tầng thứ đồng đẳng với bản thân họ. Nhưng đó là điều xa xôi, bất khả tư nghị, là một con số niên đại còn lớn hơn những con số thiên văn, chư vị căn bản không cần quản nó.

弟子:先拜無生後拜佛,無生老母是怎麼回事?

Đệ tử: ‘Tiên bái vô sinh hậu bái Phật’, ‘vô sinh lão mẫu’ là chuyện gì?

師:哪有甚麼無生老母啊?根本就沒有這麼個神。常人中現在亂七八糟的名詞可多了,根本就沒有那麼回事。我告訴大家,有些邪法,狐黃白柳的,因為一層不知一層的事,正法覺者都不理它。它覺的它修煉的好像挺高了,它沒碰過比它高的,它也不相信有比它高的。它甚麼都敢說,天老二它老大,所以它也不講心性,造了許多名詞亂世亂法。大家就按照我們這一門傳的東西你去修,把各種亂七八糟的事都把它放下。

Sư phụ: Nào có ‘vô sinh lão mẫu’ gì chứ? Hoàn toàn không có Thần nào như vậy. Hiện nay những danh từ loạn lung tung trong người thường rất là nhiều; hoàn toàn không có chuyện đó. Tôi bảo mọi người này, có một số tà pháp, của cáo chồn quỷ rắn, bởi vì tầng này không biết chuyện của tầng kia, [mà] các Giác Giả chính Pháp đều không lý gì tới nó88. Nó cảm thấy nó tu luyện được dường như cao lắm rồi, nó chưa hề gặp ai cao hơn nó, nó cũng không tin rằng có ai cao hơn nó. Điều gì nó cũng dám nói, nhất nó nhì trời89, cho nên nó cũng không giảng tâm tính, chế tạo ra rất nhiều danh từ loạn thế loạn Pháp. Mọi người cứ tu theo những điều được truyền trong môn này của chúng ta, hãy vứt hết những chuyện loạn bát nháo kia đi.

弟子:您的師父們怎麼都在場上跪著,而且滿場都是蓮花還有天兵天將?

Đệ tử: Những vị sư phụ của Ngài sao đều quỳ trong hội trường, hơn nữa khắp hội trường đều là hoa sen còn có cả thiên binh thiên tướng.

師:哪個也不是我師父,上面誰都得這樣對我,只是你們人不知道。你以為他們是佛,你以為他們是道,他就是我師父,那層次更高的多了去了。不要看到誰都是我師父。我在講法的時候,從上到下護法的神很多。你看到就看到了,包括其他學員也有看到的。

Sư phụ: Không ai trong đó là sư phụ của tôi cả, bên trên kia ai cũng đối đãi với tôi như vậy, chỉ có con người các vị là không biết. Chư vị tưởng rằng [vì] họ là Phật, chư vị tưởng rằng [vì] họ là Đạo, nên họ là sư phụ của tôi, vậy mà tầng thứ cao hơn thì nhiều [vị] hơn nhiều. Không được cứ thấy ai thì đó là sư phụ của tôi. Khi tôi giảng Pháp, chư Thần hộ Pháp từ trên xuống dưới rất là nhiều. Chư vị nhìn thấy thì là nhìn thấy rồi, gồm cả những học viên khác cũng đã nhìn thấy.

弟子:請老師解釋一下太極、八卦中所提到的房宅、祖墳、風水這些事情?

Đệ tử: Xin Thầy giải thích một chút về những thứ như phòng ốc, mộ tổ, phong thủy được nói đến trong Thái Cực, Bát Quái?

師:你把這些東西趕快都扔了吧,這都是世間小道上的東西。我傳你大法,大家知道一個修煉的人,你的一切都是改變的。一個修煉的人這一切對你都不起作用,所以你要放下它。但你自己有執著心不去不行啊,你老是認為那個風水對你起作用,那就是執著心,那可能說不定真有這種狀態,那就是為了去你執著心的。

Sư phụ: Chư vị hãy mau chóng vứt bỏ hết những thứ này đi, đây đều là những thứ trong tiểu đạo thế gian. Tôi truyền Đại Pháp cho chư vị, mọi người biết rằng một người tu luyện, mọi thứ của chư vị đều đã được cải biến. [Đối với] một người tu luyện thì tất cả những thứ này đều không khởi tác dụng với chư vị, cho nên chư vị phải buông bỏ nó. Nhưng bản thân chư vị có tâm chấp trước không bỏ thì không được đâu, chư vị cứ mãi cho rằng phong thủy đó khởi tác dụng đối với chư vị, đó chính là tâm chấp trước, có lẽ không chừng lại thật sự có trạng thái này, đó chính là để trừ bỏ tâm chấp trước của chư vị.

弟子:因為生命是父母給的,對其孝順是否在還業?

Đệ tử: Bởi vì sinh mệnh là cha mẹ cấp cho, hiếu thuận với họ có phải là hoàn trả nghiệp không?

師:這裏邊不牽扯業的問題,人活著就是為了個情,人就是為這個情而活著。你孝順父母你也是為了這個情;父母喜歡你也是個情,都是人間之情。當然咱們從另外一個角度上講,父母生了你,養了你,你就應該對他好,就應該是這樣吧。所以你說你對父母不好,從常人的理上講不過去,在高層次上看也不行。但修煉就要慢慢放下這個情。

Sư phụ: Tại đây không liên quan tới vấn đề nghiệp, con người sống chính là vì cái tình, con người chính là vì cái tình này mà sống. Chư vị hiếu thuận cha mẹ thì chư vị cũng là vì cái tình này; cha mẹ yêu quý chư vị cũng là cái tình, đều là cái tình nơi con người. Đương nhiên chúng ta giảng từ góc độ khác, cha mẹ sinh ra chư vị, nuôi dưỡng chư vị, thì chư vị nên đối tốt với họ, chính là nên như vậy. Cho nên chư vị nói chư vị không tốt với cha mẹ, thì từ cái lý của người thường thì không chấp nhận được, từ trên tầng thứ cao mà xét thì cũng không được. Nhưng tu luyện thì phải dần dần buông bỏ cái tình này.

弟子:我們這一法門是否超出觀音和彌勒法門?

Đệ tử: Pháp môn này của chúng ta có phải là siêu xuất khỏi pháp môn Quán Âm và Di Lặc?

師:觀音沒有法門,彌勒也沒有法門,是魔亂法編出來的。你就仔細學學這個法你就知道了。其實很多事情我都講出來了,我們煉的是整個宇宙這麼大的一個東西,你想一想他是甚麼。怎麼能用那些邪法來做比較呢?

Sư phụ: Quán Âm không có pháp môn, Di Lặc cũng không có pháp môn; [kia] là do ma loạn Pháp mà bịa ra. Chư vị hãy học thật kỹ Pháp này thì chư vị sẽ biết. Kỳ thực rất nhiều chuyện tôi đều giảng ra rồi; điều chúng ta luyện là toàn bộ vũ trụ —một điều to lớn như vậy— chư vị thử nghĩ xem Nó là gì. Sao có thể dùng những thứ tà pháp đó để so sánh chứ?

弟子:我三年前就已皈依佛門沒受戒,對以後修煉法輪大法是否有影響?

Đệ tử: Ba năm trước con đã quy y nơi cửa Phật [nhưng] chưa thọ giới, thì có ảnh hưởng gì tới tu luyện Pháp Luân Đại Pháp sau này không?

師:那連形式都沒有走怎麼算皈依哪?沒有皈依,你只是信佛教,只能這麼說。所謂皈依也沒關係,這個沒有甚麼影響,佛不重教,只重人心。皈依了不是皈了佛,而是皈了教。修哪一門是你個人的事情。你說我就在佛教中修那你就在佛教中修,你說我就在法輪大法中修那你就在法輪大法中修。大家來了都是緣份,我就得對大家負責任。我就跟大家說,現在佛教中很不好修,這個末法時期很亂,和尚自己都很難自度。不告訴你也是不負責任。

Sư phụ: Ngay cả hình thức còn không theo thì sao tính là quy y được? Chưa quy y, chư vị chỉ là tin Phật giáo, chỉ có thể nói như vậy. Cái gọi là quy y cũng không hề gì, cái đó không ảnh hưởng gì, Phật không coi trọng tôn giáo, chỉ coi trọng nhân tâm. Quy y ấy không phải là quy vào Phật, mà là quy vào tôn giáo. Tu môn nào là việc cá nhân chư vị. Chư vị nói chư vị chỉ tu trong Phật giáo thì chư vị cứ tu trong Phật giáo, chư vị nói chư vị tu trong Pháp Luân Đại Pháp thì chư vị cứ tu trong Pháp Luân Đại Pháp. Mọi người tới [đây] đều là duyên phận, tôi phải có trách nhiệm với mọi người. Nên tôi nói với mọi người rằng, hiện giờ trong Phật giáo rất không dễ tu, thời kỳ mạt Pháp này thật là loạn, hòa thượng bản thân còn rất khó tự độ. Không bảo chư vị biết cũng là không có trách nhiệm.

弟子:老師,元嬰是主意識修成的嗎?副意識又修成甚麼果位?元嬰修成後到另外空間去了,那他和本身誰支配他?

Đệ tử: Thưa Thầy, nguyên anh là chủ ý thức tu thành phải không? [Nếu] phó ý thức cũng tu thành thì là quả vị gì? Nguyên anh tu thành rồi đi không gian khác, vậy [giữa] nó và bản thể thì ai chi phối nó?

師:就是你主意識主宰這個身體修成的。副意識在我們這一法門中將來作為你的護法,同時得道。你的元嬰是你自己修煉出來的,當然你自己支配。甚麼到另外空間去了?你不主宰他,他都不會動的,他就是圓滿後的身體——佛體。

Sư phụ: Chính là chủ ý thức của chư vị làm chủ tể90 cái thân thể này mà tu thành [nguyên anh]. Phó ý thức trong pháp môn này của chúng ta tương lai sẽ làm hộ pháp của chư vị, [nó] đồng thời đắc Đạo. Nguyên anh của chư vị là bản thân chư vị tu luyện ra, đương nhiên do bản thân chư vị chi phối. Đi không gian khác gì chứ? Chư vị không làm chủ nó, thì nó cũng sẽ không động, nó chính là thân thể sau khi viên mãn: Phật thể.

弟子:甚麼情況下可以用自己的功能?

Đệ tử: Trong tình huống nào có thể dùng công năng của mình?

師:提這個問題的人你要是沒聽課,我可以原諒你。今天是第十堂課了,你還惦記著用功能,用功能幹甚麼?做甚麼事?那個執著心怎麼還沒有去?當然作為一個修煉的人,該出他就出,該能用到時候就知道了。你不要執著這些東西。帶著任何有求之心都得不了法。

Sư phụ: Người nêu ra câu hỏi này nếu chư vị chưa nghe giảng, thì tôi có thể lượng thứ cho chư vị. Hôm nay đã là buổi thứ mười, chư vị còn nghĩ tới dùng công năng, dùng công năng làm gì? Để làm việc gì? Tâm chấp trước đó sao còn chưa bỏ? Đương nhiên là một người tu luyện, nên xuất [ra công năng] thì nó sẽ xuất, [khi] có thể dùng thì sẽ biết. Chư vị không được chấp trước vào những thứ này. Mang theo bất kỳ tâm hữu cầu nào cũng đều không thể đắc Pháp.

弟子:法輪大法學員經修煉所達到的層次不同,數年後他們的去向如何?

Đệ tử: Học viên Pháp Luân Đại Pháp qua tu luyện mà đạt tới tầng thứ khác nhau, mấy năm sau họ sẽ đến [vị trí] nào?

師:付出多少得到多少,修煉最好的就圓滿功成;修煉的差一點那個層次也不錯,但是哪,可能跳不出三界。因為你只有真正的得果位了,才能跳出三界的。有的人很不錯,能修的很高;有的人帶修不修的,那也能得到一些,可以做三界內不同層次的天人。

Sư phụ: Phó xuất bao nhiêu đắc được bấy nhiêu, [ai] tu luyện thì tốt nhất sẽ viên mãn công thành; tu luyện kém một chút [thì] tầng thứ đó cũng không tệ, nhưng mà, có thể không nhảy xuất khỏi tam giới. Bởi vì chư vị chỉ khi thật sự đắc quả vị, mới có thể nhảy ra khỏi tam giới. Có người rất giỏi, có thể tu được rất cao; có người nửa tu nửa không91, thì cũng có thể đắc được một chút, có thể làm Thiên nhân của tầng thứ khác nhau trong tam giới.

弟子:法身甚麼情況下自己走掉?

Đệ tử: Trong tình huống nào thì Pháp thân tự mình đi mất?

師:只要你是個修煉的人他就管你,直到你圓滿。除非不修煉了,徹底不修煉了,他也失望了,看你真不行了,那麼他也就不管你了。法輪也是一樣,說你不修煉了,常人能帶一個這樣的東西嗎?你要他也沒有用,因為你不修煉他對你不起作用。

Sư phụ: Chừng nào chư vị là người tu luyện thì Ông sẽ quản chư vị, mãi tới khi chư vị viên mãn. Trừ phi không tu luyện nữa, triệt để không tu luyện nữa, Ông cũng thất vọng rồi, thấy chư vị quả thật không được nữa, vậy thì Ông cũng không quản chư vị nữa. Pháp Luân cũng như vậy, chẳng hạn chư vị không tu luyện nữa, người thường liệu có thể mang một thứ như thế này sao? Chư vị muốn Nó thì cũng vô dụng, bởi vì chư vị không tu luyện thì Nó cũng không khởi tác dụng đối với chư vị.

弟子:元神、主元神和識神是一個意思嗎?

Đệ tử: Nguyên thần, chủ nguyên thần và thức thần là cùng một ý nghĩa phải không?

師:主元神就是你自己,你想甚麼、你做甚麼,平時你幹甚麼就是你自己。副元神他和你同時從娘胎裏降生出來的,和你叫一個名字。但是他和你有區別,你做甚麼事情他知道;他做甚麼事情你根本就不知道。所以從根本上講又不是一個神,那麼根本上講又不是你自己。只有你自己,就是我想幹甚麼、做甚麼,明明白白的時候這是你真正的自己。人就是這樣的,歷來就是這樣一種形式,所以都有副元神。元神是個概括的說法,概括的講副元神、元神都算在內了,所以我們講元神、元神。我們這裏就是講主元神、副元神。至於說那個識神,那是道教中講的,他們指的是主元神。

Sư phụ: ‘Chủ nguyên thần’ chính là bản thân chư vị, chư vị nghĩ gì, chư vị làm gì, lúc bình thường chư vị làm những gì thì chính là bản thân chư vị. ‘Phó nguyên thần’ nó cùng với chư vị đồng thời từ trong thai mẹ giáng sinh mà ra, gọi cùng một tên với chư vị. Nhưng nó và chư vị có sự khác biệt, chư vị làm chuyện gì nó cũng biết; nó làm việc gì chư vị không hề biết. Cho nên về căn bản mà giảng lại không phải [cùng] là một [nguyên] thần, như vậy căn bản lại cũng không phải là bản thân chư vị. Chỉ có bản thân chư vị, tức là ta muốn làm gì, thực thi việc gì, lúc rất rõ ràng minh bạch thì đó là tự kỷ chân chính của chư vị. Con người chính là như vậy, xưa nay vốn là một loại hình thức như vậy, cho nên đều có phó nguyên thần. ‘Nguyên thần’ là một cách nói khái quát, một cách khái quát mà giảng phó nguyên thần và nguyên thần đều tính là ở trong đó, cho nên chúng tôi giảng nguyên thần, nguyên thần. Tại đây chúng tôi giảng là ‘chủ nguyên thần’ và ‘phó nguyên thần’. Còn nói về ‘thức thần’, đó là điều giảng trong Đạo giáo, đó họ là nói đến chủ nguyên thần.

弟子:懷孕後可以煉法輪大法嗎?

Đệ tử: Mang thai rồi có thể luyện Pháp Luân Đại Pháp không?

師:可以,沒有問題的。過去有人遞條子,說懷孕婦女煉法輪大法,那個法輪在肚子裏轉,你說那個小孩他能受的了嗎?跟大家講,他不在一個空間。要是在一個空間,那法輪在裏頭轉來轉去,你腸子也受不了,不在一個空間。各個空間都有你身體存在的形式。

Sư phụ: Có thể, không hề gì. Trước kia có người đưa tờ câu hỏi, nói rằng ‘phụ nữ mang thai luyện Pháp Luân Đại Pháp, Pháp Luân kia xoay chuyển trong bụng, Ông nói xem em bé đó có thể chịu được không?’ Tôi nói với mọi người, rằng nó không ở cùng một không gian. Nếu ở cùng một không gian, mà Pháp Luân xoay tới xoay lui ở trong, thì đến ruột của chư vị cũng không chịu nổi; không ở cùng một không gian. Các không gian đều có hình thức tồn tại của thân thể chư vị.

弟子:我因個子矮煩惱,請問能長高嗎?

Đệ tử: Con thấy phiền não vì dáng lùn, xin hỏi có thể cao lên được không?

師:怎麼甚麼都來問我呀?我這裏教的是煉功的人。抱著這些執著心來修能行嗎?!個子矮影響你修煉嗎?我這裏教的是高層次上修煉的大法。你想當常人,還想當一個完美形像的常人,別來找我,上醫院去做甚麼美容手術去。這麼長時間講了十堂課,有的人還不知道我在講甚麼,你怎麼這些事還來問我哪?常人的事情我們不管,你抱著這個執著心來聽課也不行,啥也得不到。但我知道,通過學法以後你會明白的。

Sư phụ: Làm sao chuyện gì cũng tới hỏi tôi? Ở đây tôi dạy là người luyện công. Ôm giữ những tâm chấp trước này mà tu liệu có được chăng?! Dáng lùn có ảnh hưởng chư vị tu luyện không? Điều tôi dạy nơi đây là Đại Pháp tu luyện lên tầng thứ cao. Chư vị muốn làm người thường, còn muốn làm một người thường có hình tượng hoàn mỹ, thì đừng tới tìm tôi, hãy tới bệnh viện làm cái gì đó gọi là phẫu thuật thẩm mỹ đi. Thời gian lâu như vậy giảng đã mười buổi rồi, có người vẫn còn không biết tôi đang giảng điều gì, sao những chuyện này chư vị còn tới hỏi tôi chứ? Chuyện của người thường chúng tôi không quản, chư vị ôm giữ tâm chấp trước này tới nghe giảng cũng không được, không đắc được gì cả. Nhưng tôi biết rằng, sau khi thông qua học Pháp chư vị sẽ minh bạch ra.

弟子:煉法輪大法之前進行按摩?

Đệ tử: Trước khi luyện Pháp Luân Đại Pháp tiến hành xoa bóp [được không]?

師:按摩甚麼呀?我們法輪大法這個大脈、氣機在運轉的時候甚麼都給你做了,你還按摩甚麼?我們教你甚麼你就煉甚麼,沒教你的你千萬別往裏頭亂加這些東西,都有各種氣功的亂七八糟信息,假氣功信息,甚麼都有。啥也不要往裏加,意念都不能加。純純淨淨的修煉才會快。

Sư phụ: Xoa bóp gì chứ? Khi đại mạch, khí cơ này của Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi vận chuyển thì mọi thứ đều làm cho chư vị rồi, chư vị còn xoa bóp gì đây? Chúng tôi dạy chư vị gì thì chư vị luyện nấy, những gì không dạy chư vị thì chư vị nhất quyết không được thêm lung tung những thứ này vào trong đó, [nó] đều có mang những tín tức loạn bát nháo của các loại khí công, tín tức của khí công giả, thứ gì cũng có. Không được thêm vào thứ gì cả, ngay cả ý niệm cũng không được thêm vào. Tu luyện một cách hết sức thuần tịnh thì mới nhanh được.

弟子:我是體育教員,要求我教給學生一些其它門派的功法,比如一指禪、太極拳應該如何?

Đệ tử: Con là giáo viên thể dục, [người ta] yêu cầu con dạy cho học sinh một số thứ trong công pháp của những môn phái khác, như là Nhất Chỉ thiền, Thái Cực quyền thì nên làm thế nào?

師:那你就教我們的法輪大法,這做多大好事。當然你想煉法輪大法我才告訴你這樣做。你要是教其它的東西,可還真是不行。你說你不煉法輪大法,那我也不管。因為我告訴你真正修煉就得專一的。其實這一類具體問題我根本就不願解答的,你都能自己酌量著辦。

Sư phụ: Vậy thì chư vị hãy dạy Pháp Luân Đại Pháp của chúng ta, làm chuyện tốt biết mấy. Đương nhiên chư vị muốn luyện Pháp Luân Đại Pháp tôi mới bảo chư vị làm như vậy. Nếu chư vị dạy những thứ khác, thì vẫn quả thực là không được. Chư vị nói chư vị không luyện Pháp Luân Đại Pháp, vậy tôi cũng không quản. Bởi vì, tôi bảo chư vị này, tu luyện chân chính thì phải chuyên nhất. Kỳ thực vấn đề cụ thể như thế này là tôi không hề muốn giải đáp, chư vị đều có thể tự cân nhắc mà làm.

用其它氣功手法給人看病也不行,你一用就加進去別的東西,它就來,你的功還是照樣亂套。

Dùng thủ pháp khí công khác để khám bệnh cho người ta cũng không được, chư vị hễ dùng là sẽ thêm vào những thứ khác, nó liền tới, công của chư vị sẽ bị loạn cũng như thế.

弟子:用其它功法的錄音帶煉功可以嗎?

Đệ tử: Dùng băng tiếng của công pháp khác để luyện công có được không?

師:這些東西都帶有那一門的信息。我這麼講怎麼就這麼糊塗啊?你煉法輪大法你就煉法輪大法,那些東西你根本就碰都碰不了,一動就給你沾身上。請神容易送神難,你送不走它。我的法身也不願意管,你的悟性這麼差,這法都講到這種成度了,你還這樣式的!那就等著你自己悟,自己栽跟頭,實在把你栽的夠嗆了,不行了,從而才能去你的心。

Sư phụ: Những thứ này đều mang theo tín tức của môn đó. Tôi giảng thế này rồi sao vẫn hồ đồ như vậy chứ? Chư vị luyện Pháp Luân Đại Pháp thì chư vị là luyện Pháp Luân Đại Pháp, những thứ kia căn bản chư vị ngay cả động vào cũng không thể động, hễ động là sẽ nhiễm lên thân chư vị. Mời thần đến thì dễ tiễn thần đi thì khó92, chư vị không thể tiễn nó đi được. Pháp thân của tôi cũng không muốn quản, ngộ tính của chư vị kém như vậy, Pháp này đã giảng ra tới mức độ này rồi, chư vị vẫn còn như thế! Vậy thì hãy đợi tự chư vị ngộ, tự mình ngã lộn nhào, thực sự khiến chư vị ngã thật đau, không chịu được nữa, từ đó mới có thể trừ bỏ tâm của chư vị.

弟子:打嗝產生的氣從嘴裏嚥下去還是吐出去?

Đệ tử: Khí sinh ra khi bị nấc thì nuốt vào trong miệng hay nhổ ra ngoài?

師:你打嗝的氣你嚥它幹啥?吐出去。我們在調整身體的時候多數打嗝返出來的都是廢氣,都是髒氣,因為它是屬於臟腑中的髒氣。

Sư phụ: Khí do chư vị bị nấc chư vị còn nuốt nó làm gì? Hãy nhổ ra ngoài. Chúng ta khi điều chỉnh thân thể đa số nấc đẩy ra thì đều là khí thải, đều là khí bẩn, bởi vì nó là thuộc về khí bẩn trong phủ tạng.

弟子:出於行善的目地可不可以阻止練其它功法的人?

Đệ tử: Xuất phát từ mục đích hành thiện có thể ngăn cản những người luyện công khác không?

師:不行。人就是那樣的。他進哪個門是人自己的選擇,你看我們法輪大法一辦班總是有一些假氣功也同時來開班,就看你進哪個門。人得法就是不容易,得正法就更難。我們可以告訴大家,勸善他不聽,不聽就算了。你硬阻止他,他不想成佛你硬想要他成佛,哪有這麼個道理呀?他自己得用自己的心去修,他不想修你能管得了嗎?他想成魔也沒辦法,就是這個道理。

Sư phụ: Không được. Con người chính là như vậy. Họ tiến vào cửa nào là lựa chọn của tự họ; chư vị thấy Pháp Luân Đại Pháp chúng ta hễ mở lớp thường luôn có mấy khí công giả cũng đồng thời tới mở lớp, chính là xem các vị vào cửa nào. Con người đắc Pháp quả là không dễ, đắc chính Pháp càng khó hơn. Chúng ta có thể nói cho mọi người biết, khuyến thiện mà họ không nghe, không nghe thì thôi. Chư vị cố ngăn cản họ, họ không muốn thành Phật mà chư vị cứ nhất quyết muốn họ phải thành Phật, nào có đạo lý đó? Tự họ phải tu bằng cái tâm của họ, họ không muốn tu thì chư vị có thể quản được chăng? Họ muốn thành ma thì cũng không chịu thôi, chính là đạo lý này.

弟子:每套功法煉完後的結印狀態和下一套功法開始的結印是否可以不分開?

Đệ tử: Trạng thái kết ấn sau khi luyện xong mỗi bộ công pháp và kết ấn khi bắt đầu bài công pháp tiếp theo có thể không bỏ tay ra không?

師:是。你煉下一套那個手就不用分開了,直接是結印的,然後接著接下一套功法。但是每套功法要求做九遍的必須做九遍,停下來結印,然後你再接著做。為甚麼要這樣呢?因為大家知道,我們在高層次上煉功的時候講無為,沒有任何意念。你老是數數,其實到了高層次上修煉,你能老是聽錄音嗎?聽那個錄音帶的目地是聽到我們這一門音樂中帶了好的能量。同時又是讓煉功的人一念代萬念,聽到音樂你就不想其它不好的事情,你的思想就不雜,主要是這個目地。到了高層次上修煉的時候,大家想一想,你能老聽音樂或者去數數嗎?不行。我們每次煉功的時候都是九遍,這樣一來就使這個機、我給你下的這個氣機、這個機制就固定在九上,所以你要到高層次中煉功你根本不用數數。你自己在這煉功,你做到九遍的時候,保證他那個機自己往上合,他力量很大,能感覺到他力量存在,他自己就去疊扣小腹去了。到第九遍他自己就去推法輪去了。你這個手是隨機而走,到了高層次上就是這樣。

Sư phụ: Phải rồi. Chư vị luyện bài tiếp sau thì không cần bỏ tay ra nữa, trực tiếp đã kết ấn, sau đó tiếp tục bài công pháp tiếp theo. Nhưng mỗi bài công pháp yêu cầu làm chín lần thì ắt phải làm chín lần, dừng lại [để] kết ấn, sau đó chư vị làm tiếp. Vì sao cần làm như vậy? Vì như mọi người biết, khi luyện công tại cao tầng chúng ta giảng vô vi, không hề có bất cứ ý niệm nào. Chư vị cứ mãi đếm số, kỳ thực tu luyện đến cao tầng, chư vị có thể cứ nghe mãi băng ghi âm sao? Mục đích của việc nghe băng ghi âm kia chính là để nghe được năng lượng tốt có mang theo trong âm nhạc của môn chúng ta. Đồng thời lại có thể khiến người luyện công một niệm thay vạn niệm, nghe được âm nhạc chư vị sẽ không nghĩ tới những chuyện bất hảo khác, tư tưởng của chư vị sẽ không bị tạp, chủ yếu là mục đích này. Đến tu luyện khi đến tầng thứ cao, mọi người thử nghĩ xem, chư vị có thể cứ mãi nghe nhạc hay đếm số không? Không được. Mỗi lần chúng ta luyện công đều là chín lần, cứ như vậy sẽ khiến bộ cơ này, khí cơ, cơ chế mà tôi cài cho chư vị là cố định vào số chín, cho nên nếu chư vị luyện công tại tầng thứ cao thì chư vị hoàn toàn không cần đếm số. Bản thân chư vị ở đó luyện công, khi chư vị làm đến chín lần, đảm bảo bộ cơ đó nó sẽ đóng lại, lực lượng của nó rất lớn, có thể cảm giác lực lượng của nó tồn tại, tự bản thân nó sẽ điệp khấu tiểu phúc. Tới lần thứ chín thì tự nó sẽ đẩy Pháp Luân. Tay của chư vị là tùy theo cơ mà chuyển động, tới tầng thứ cao thì chính là như vậy.

弟子:貫通兩極法中是先想兩個空筒子?

Đệ tử: Trong Quán Thông Lưỡng Cực Pháp có phải trước tiên nghĩ tới hai cái ống rỗng không?

師:當然,貫通兩極法的時候主要是告訴大家,給大家思想中加上這麼一個概念,我的身體像一根空筒子一樣,像兩根空筒子一樣或者一根空筒子一樣。主要是在貫通的時候讓你這個能量流沒有阻礙的暢通,在身體裏沒有阻礙,主要是這個意思。但你煉功時就不要老想你是空筒子了,在煉功前加這麼個想法就完了。

Sư phụ: Đương nhiên, khi Quán Thông Lưỡng Cực Pháp chủ yếu là bảo mọi người, để thêm vào trong tư tưởng mọi người một khái niệm như vậy, thân thể của ta như một cái ống rỗng, giống hai cái ống rỗng hoặc giống một cái ống rỗng. Chủ yếu là khi quán thông khiến dòng năng lượng này của chư vị thông suốt không gặp trở ngại, trong thân thể không có trở ngại, chủ yếu là ý tứ ấy. Nhưng khi chư vị luyện công thì không được nghĩ mãi mình là cái ống rỗng, trước khi luyện công thêm vào cách nghĩ như vậy là được rồi.

弟子:不能堅持站立,坐著是否能煉功?

Đệ tử: Không thể kiên trì đứng được, thì ngồi có thể luyện công không?

師:我們這個大法就要求真正能夠修煉的人。你說你站不起來也想煉,因為你這樣煉達不到煉功的要求,這個機也容易走偏,和我們的要領上都不一樣。

Sư phụ: Đại Pháp này của chúng ta chính là yêu cầu những người thật sự có thể tu luyện. Chư vị nói chư vị không thể đứng được mà vẫn muốn luyện, bởi vì chư vị luyện như vậy sẽ không thể đạt được yêu cầu của luyện công, bộ cơ này cũng dễ bị lệch, không giống với yếu lĩnh của chúng tôi.

弟子:念佛拜佛對修煉有無影響?

Đệ tử: Niệm Phật, bái Phật có ảnh hưởng tu luyện không?

師:有影響。信佛教的人,我告訴你,佛教中的法不是佛法中的全部,它只是佛法中的一小小部份。佛教徒他老是不敢承認這個現實,其實經書中都有論述。你修哪一法門是個嚴肅的問題。你要想修哪一法門我們不反對,你就修。你要修這一法門你就修這一法門。不二法門,在過去佛教中都不准許亂修的,你念他的名字,你不就是想要叫他管你嗎?那你念他的名字幹甚麼呀?

Sư phụ: Có ảnh hưởng. Người tin Phật giáo, tôi nói với chư vị, Pháp trong Phật giáo không phải là toàn bộ Phật Pháp, nó chỉ là một bộ phận rất nhỏ bé trong Phật Pháp. Tín đồ Phật giáo vẫn luôn không dám thừa nhận thực tế này; kỳ thực ngay cả kinh sách [Phật giáo] cũng có luận thuật [như vậy]. Chư vị tu pháp môn nào là một vấn đề nghiêm túc. Chư vị muốn tu pháp môn nào chúng tôi cũng không phản đối, chư vị cứ tu. Nếu chư vị muốn tu pháp môn này thì chư vị là tu pháp môn này. Bất nhị pháp môn; trong Phật giáo quá khứ đều không cho phép loạn tu, chư vị niệm tên của họ, thì chẳng phải chư vị muốn để họ quản chư vị hay sao? Chư vị niệm tên của họ làm gì đây?

弟子:中國流行的氣功中哪些屬於正法?

Đệ tử: Trong những khí công thịnh hành ở Trung Quốc những môn nào thuộc về chính Pháp?

師:假的比真的多出幾百倍來。我們不能點名,不能這樣做,不能甚麼事情都說明了,那人也太好修了。但有些我們也應該能鑑別出來了。

Sư phụ: Giả nhiều hơn thật mấy trăm lần. Chúng tôi không thể điểm danh, không thể làm như vậy, không thể chuyện gì cũng nói rõ ra, như vậy thì con người tu cũng quá dễ rồi. Nhưng có một số chúng ta cũng nên là có thể phân biệt ra.

弟子:楞嚴經是釋迦牟尼親口傳出來的嗎?

Đệ tử: Kinh Lăng Nghiêm là do chính miệng Thích Ca Mâu Ni truyền ra phải không?

師:楞嚴經啊,我告訴大家,釋迦牟尼並沒有說自己傳過楞嚴經、金剛經、心經的。釋迦牟尼在世的時候,根本就沒有講過我傳過甚麼甚麼經書,也沒起過名。釋迦牟尼講過法,是後人整理出來的這個經書,把它起出名字來,叫甚麼經甚麼經。都是後人整理出來,起出來的名字。和佛在世時講的,時間、地點、針對性都發生了變化,加上後人整理時的理解和有意無意的改動,加上記憶不完全等,裏面佛的東西已不多了。

Sư phụ: Kinh Lăng Nghiêm à, tôi bảo mọi người này, Thích Ca Mâu Ni không hề nói mình đã truyền Lăng Nghiêm Kinh, Kim Cương Kinh, [hay] Tâm Kinh. Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế, hoàn toàn không hề giảng rằng ta truyền kinh sách nào đó, cũng không hề đặt tên. Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp; là người đời sau chỉnh lý ra kinh sách, đặt tên cho kinh sách, gọi là kinh này kinh kia. Đều là người đời sau chỉnh lý ra, và đặt tên. So với điều mà Phật lúc tại thế giảng —thời gian, không gian, tính nhắm thẳng— đều đã thay đổi rồi; thêm vào là những giải thích và những thay đổi một cách vô ý hay cố ý khi người đời sau chỉnh lý, thêm nữa là ký ức không hoàn chỉnh v.v., những điều của Phật trong đó đã không còn nhiều nữa.

弟子:家中供的佛能不能上香?

Đệ tử: Phật thờ cúng trong nhà có thể dâng hương không?

師:你願意上香就上吧。佛都是互相尊敬的,都是佛家的,沒有我尊敬你不尊敬他,沒有這個意思。都是佛家的都要尊敬。但是修哪一門這是個嚴肅的問題,敬是敬的問題,修是修的問題。

Sư phụ: Chư vị muốn dâng hương thì dâng hương thôi. Chư Phật đều tôn kính lẫn nhau, đều là Phật gia, không có chuyện là ta tôn kính vị này mà không tôn kính vị kia, không có ý này. Đều là Phật gia thì đều phải tôn kính. Nhưng tu môn nào là vấn đề nghiêm túc, kính [trọng] là vấn đề kính [trọng], tu là vấn đề tu.

弟子:修煉法輪大法的人是否能吃蔥、薑、蒜?

Đệ tử: Người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp có thể ăn hành, gừng, tỏi chăng?

師:我告訴大家,我們常人做菜,說你放了蔥、薑、蒜我說也沒啥問題。如果你不是集體修煉你不干擾別人,你少吃一點,你別多吃。因為這個東西刺激味很大。說我就有癮,就愛吃這個大蔥蘸大醬,那也是個癮,也是個執著。就是我們不追求這個東西。而且這個味道,凡是有刺激味的東西,對你的這個神經刺激很大,容易上癮。同時哪,你身體所修煉出來的那些個靈體,也受不了這個味。喝酒也是這樣,所以大家想一想,它就是這個問題。當然你少吃一點,因為你在常人中修煉,你不執著的吃一點也無所謂。自己擺正關係吧,說我們在常人中修煉,最大限度的,反正讓你和常人一樣。但是自己應該用煉功人的標準要求自己。

Sư phụ: Tôi bảo mọi người này, người thường chúng ta làm cơm, bảo chư vị cho hành, gừng, tỏi thì tôi nói rằng cũng không vấn đề gì. Nếu chư vị không phải là tu luyện tập thể chư vị không can nhiễu tới người khác, thì chư vị ăn ít đi một chút, chư vị đừng ăn nhiều. Bởi vì những thứ này mùi vị kích thích rất mạnh. Nói rằng tôi nghiện, chỉ thích ăn hành chấm tương, đó cũng là nghiện, cũng là chấp trước. Nghĩa là chúng ta không truy cầu thứ này. Hơn nữa cái mùi vị này, phàm là những thứ có mùi vị kích thích, thì đối với thần kinh của chư vị sẽ kích thích rất mạnh, dễ gây nghiện. Đồng thời, những linh thể mà chư vị tu luyện xuất lai kia, cũng không thể chịu nổi cái mùi này. Uống rượu cũng như vậy, cho nên mọi người thử nghĩ xem, nó chính là vấn đề này. Đương nhiên chư vị ăn ít đi một chút, bởi vì chư vị tu luyện trong người thường, chư vị không chấp trước mà ăn một chút cũng không sao. Tự mình hãy thu xếp thích đáng quan hệ này; nói rằng chúng ta tu luyện trong người thường, [phù hợp] ở mức độ tối đa, dẫu sao cũng để chư vị giống với người thường. Nhưng tự mình nên dùng tiêu chuẩn của người luyện công mà yêu cầu bản thân.

弟子:為甚麼有的人第一次聽課有三、四天就感到法輪轉?到處都有、都在轉,可是有的人已經學了三個班了,仍然沒有感覺?

Đệ tử: Vì sao có người lần đầu tiên nghe giảng bài có ba, bốn hôm đã cảm thấy Pháp Luân xoay chuyển? Chỗ nào cũng có, đều xoay chuyển, nhưng có người đã học tới ba lớp, nhưng vẫn không có cảm giác?

師:有的人學習這個法輪大法,跟著班走,覺的這個法好,這是肯定的。但是呢,他治病的心根本就沒放,說我多跟幾個班這病就好,有這樣的人。當然抱著甚麼心態的都有,跟班的不都是來修煉的,來求法的。還有的人本來就不敏感,法輪轉起來的時候不知道,等他穩定下來的時候,你更不知道了。我們有好多人很敏感,開始時覺的這法輪轉來轉去,最後沒感覺了。為甚麼沒感覺了?因為那個法輪,他順應過來的時候你就沒有感覺了,那還感覺甚麼哪?你知道你平時你這個胃是蠕動的嗎?就是成了身體一部份的時候你就感覺不到了。血管那個血在裏頭流你感到了嗎?就是這個意思吧。

Sư phụ: Có người học tập Pháp Luân Đại Pháp này, đi theo lớp học [các nơi], cảm thấy Pháp này tốt, đây là khẳng định. Nhưng mà, tâm trị bệnh của họ hoàn toàn không buông bỏ, nói rằng tôi theo thêm vài lớp thì bệnh này sẽ khỏi, có người như vậy. Đương nhiên ôm giữ tâm thái nào cũng đều có, những người đi theo lớp không phải đều tới để tu luyện, tới để cầu Pháp. Còn có người vốn là không mẫn cảm, khi Pháp Luân bắt đầu xoay chuyển thì không biết, đợi tới khi Nó ổn định xong, thì chư vị lại càng không biết. Chúng ta có rất nhiều người rất mẫn cảm, ngay lúc ban đầu đã cảm thấy Pháp Luân này xoay chuyển tới xoay chuyển lui, cuối cùng lại không cảm giác nữa. Vì sao không cảm giác nữa? Bởi vì Pháp Luân đó, khi Nó thích ứng được rồi thì chư vị sẽ không còn cảm giác nữa; lúc đó còn cảm giác gì nữa? Chư vị có biết được khi bình thường dạ dày này của chư vị đang co bóp không? Tức là khi trở thành một bộ phận của thân thể thì chư vị sẽ không cảm giác thấy được. Máu trong huyết quản đang chảy chư vị có cảm giác thấy không? Ý tứ là như vậy.

弟子:我現在要到韓國,韓國人要學法輪大法的話能不能教他們?

Đệ tử: Hiện tại con sắp tới Hàn Quốc, nếu người Hàn Quốc muốn học Pháp Luân Đại Pháp thì có thể dạy họ không?

師:當然能啊。用那個朝語去給他們翻譯。你可以翻過去給他們講,那沒有關係,大法要傳給全人類的。

Sư phụ: Đương nhiên có thể. Dùng tiếng Triều Tiên để phiên dịch cho họ. Chư vị có thể phiên dịch ra mà giảng cho họ, vậy không vấn đề gì, Đại Pháp cần truyền cho toàn nhân loại.

弟子:一人學法全家受益,那麼全家人都不學法輪大法,也不信功並有時還諷刺之語,他們能跟著受益嗎?

Đệ tử: Một người học Pháp cả nhà thọ ích, thế còn toàn bộ người nhà đều không học Pháp Luân Đại Pháp, cũng không tin vào công [Pháp] mà đôi khi còn châm chọc, thì họ có thể thọ ích được không?

師:這個問題得兩方面看。有的人他刺激你,也許是考驗你對這個法的心穩不穩定,堅不堅定。家裏人也許說你不好聽的話,還幫你消業,它可能有多方面因素存在。當然我們講了一般的情況下,不是這個極特殊的,煉功肯定是全家受益。你家的場都要清理出來,當然在這樣一個場的環境中本人他就已經受益了。再一種就是家裏人可能有魔一類的控制著,反過來看也是好事,堅定你嘛,堅定了師父會清理的。

Sư phụ: Vấn đề này cần xét theo hai phương diện. Có người châm chọc chư vị, có lẽ là khảo nghiệm tâm của chư vị với Pháp này có vững vàng hay không, có kiên định hay không. Người nhà có thể nói với chư vị những lời không dễ nghe, cũng là giúp chư vị tiêu nghiệp, nó có thể có nhân tố về nhiều phương diện tồn tại. Đương nhiên chúng ta giảng trong tình huống thông thường, không phải trong [tình huống] cực đặc thù này, luyện công khẳng định là toàn gia thọ ích. Ngay cả trường trong nhà chư vị cũng phải thanh lý ra hết, đương nhiên trong hoàn cảnh của một trường như vậy những người này là đã được thọ ích rồi. Còn một loại [tình huống] là có thể người nhà bị một loại ma khống chế, ngược lại mà xét thì cũng là việc tốt, [để] kiên định chư vị mà, kiên định rồi thì Sư phụ sẽ thanh lý.

弟子:我們一心一意修煉法輪大法,真意的去修煉也就是法輪大法弟子了,但還沒等修煉到羅漢果位就死掉了?

Đệ tử: Chúng con một lòng một dạ tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thực lòng mà tu luyện cũng tức là đệ tử Pháp Luân Đại Pháp rồi, nhưng còn chưa tu luyện tới quả vị La Hán mà đã chết đi [thì sao]?

師:就像我剛才講的,你付出多少得到多少。所以我們講了修煉要想得到圓滿就抓緊修煉!大家知道那個廟裏頭為甚麼把釋迦牟尼座的那個殿叫作大雄寶殿哪?因為釋迦牟尼講修煉佛法要像雄獅一樣勇猛精進!所以當時有人把他視為雄獅。再說我們是性命雙修的,真正精進的一定會延長生命而圓滿的。

Sư phụ: Giống như tôi vừa giảng, chư vị phó xuất bao nhiêu thì đắc được bấy nhiêu. Cho nên chúng tôi giảng tu luyện nếu muốn đạt được viên mãn thì hãy tận dụng thời gian tu luyện! Mọi người biết trong chùa kia vì sao lại gọi điện mà Thích Ca Mâu Ni ngồi tọa là ‘Đại Hùng bảo điện’ không? Bởi vì Thích Ca Mâu Ni giảng tu luyện Phật Pháp phải dũng mãnh tinh tấn như ‘hùng sư’93! Cho nên thời bấy giờ có người [ví] Ông là ‘hùng sư’. Ngoài ra chúng ta là tính mệnh song tu, những người thực sự tinh tấn thì nhất định sẽ kéo dài sinh mệnh mà viên mãn.

弟子:想拜老師為師?

Đệ tử: Muốn bái Thầy làm sư?

師:告訴大家,真正修煉法輪大法的人我都得把你當徒弟帶。給你這麼多東西,給你下上這麼多東西,法給你講到了這一步上來,功也教給你了,我的法身要保護你煉功。這還不是把你當徒弟帶嗎?人家獨修單傳的都沒有這樣帶呀。告訴你,我做了一件前人從來都沒有做過的事,開了一扇最大的門。但是我們不講過去那種形式,說大家都跪這兒給我磕個頭、作個揖,咱就是拜師了,我不講這個。為甚麼不講這個?大家想一想,你不修煉,你拜了又有甚麼用哪?你說我是法輪大法弟子,我也磕頭拜師了,李洪志承認我是弟子。你出門就我行我素,你做了有損於我們法輪大法的事情,你不按照這個法的要求去做,你能算是個弟子嗎?所以我們不講這個形式,你反而會敗壞我們的名聲,所以我根本就不講這個形式。你修你就是這一門弟子,我們就對你負責任;你不修那我們就不能對你負責任,你就不是這一門弟子。就是這樣對待的。

Sư phụ: Tôi bảo mọi người này, [với] người chân chính tu luyện Pháp Luân Đại Pháp tôi đều phải coi chư vị như đồ đệ mà dẫn dắt. Cấp cho chư vị nhiều thứ như thế này, cài cho chư vị nhiều thứ như thế này, Pháp đã giảng cho chư vị đến mức này rồi, công cũng dạy cho chư vị rồi, Pháp thân của tôi sẽ bảo hộ chư vị luyện công. Như vậy còn không phải là dẫn dắt chư vị như đồ đệ sao? Người ta độc tu đơn truyền94 cũng không có dẫn dắt như vậy đâu. Nói với chư vị rằng, tôi đã làm việc trước nay chưa từng có ai làm, đã mở ra cánh cửa to lớn nhất. Nhưng chúng tôi không giảng hình thức xưa kia; nói như mọi người đều quỳ tại đây dập đầu trước tôi, chắp tay lạy, thì chúng ta là bái sư rồi; tôi không hề giảng điều này. Vì sao không giảng điều đó? Mọi người nghĩ xem, chư vị không tu luyện, chư vị bái lạy thì có tác dụng gì chứ? Chư vị nói tôi là đệ tử Pháp Luân Đại Pháp, tôi cũng dập đầu bái sư rồi, Lý Hồng Chí thừa nhận tôi là đệ tử. Chư vị ra khỏi cửa lại muốn gì làm nấy, chư vị làm chuyện tổn hại Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi, chư vị không chiểu theo yêu cầu của Pháp này mà làm, chư vị có thể được tính là đệ tử không? Cho nên tôi không giảng cái hình thức ấy, ngược lại chư vị còn làm bại hoại danh tiếng chúng tôi, do đó tôi hoàn toàn không giảng hình thức này. Chư vị tu thì chư vị chính là đệ tử môn này, chúng tôi sẽ có trách nhiệm với chư vị; chư vị không tu vậy thì chúng tôi không thể chịu trách nhiệm với chư vị được, chư vị cũng không phải là đệ tử môn này. Chính là đối đãi như vậy.

弟子:煉貫通兩極法時「意想」、「感覺」是不是不符合要求?

Đệ tử: Khi luyện Quán Thông Lưỡng Cực Pháp “ý tưởng”95, “cảm giác” có phải là không phù hợp với yêu cầu không?

師:對。不要感覺也不要甚麼意想的。你只管去煉,靜靜的去煉,啥也不想。

Sư phụ: Đúng rồi. Đừng cảm giác cũng đừng ý tưởng gì hết. Chư vị chỉ quản việc luyện, tĩnh tĩnh mà luyện, không nghĩ gì cả.

弟子:別人說話時,在他沒說話之前我經常能知道他要說些甚麼?為甚麼?

Đệ tử: Khi người khác nói chuyện, trước lúc họ nói con thường có thể biết họ sắp nói những gì? Vì sao?

師:這就是你有了他心通功能了,如果你好好煉功可以把它加強。但是不要用它做不好的事情。不要做不好的事情就能保護它。別人想你不好你不要生氣,用煉功人的標準要求自己。

Sư phụ: Đây chính là vì chư vị đã có công năng tha tâm thông96, nếu chư vị chăm chỉ luyện công thì có thể gia cường nó. Nhưng không được dùng nó làm việc bất hảo. Không làm những việc bất hảo thì có thể giữ được nó. Người khác nghĩ chư vị không tốt chư vị không được tức giận, hãy dùng tiêu chuẩn của người luyện công mà yêu cầu bản thân.

弟子:我遠在上海,煉功中若有疑問向何人聯繫?

Đệ tử: Con ở xa tận Thượng Hải, trong khi luyện công nếu có nghi vấn thì liên hệ với ai?

師:上海不算遠。我們學員有些事情互相切磋一下還是比較好。因為有些人聽了課,但是我講的太多了不可能都記住。可以錄音,儘量多聽錄音。這個上海離你們最近的就是合肥的輔導站了。上海有邀請,但是它老是沒最後確定下來。上海也有不少人學了,也來了很多人學,可相互切磋提高。上海、武漢、廣州、鄭州、重慶、成都,反正是全國幾乎所有的好多大城市都有我們法輪大法輔導站,都可以聯繫。其實有些事情,自己按照這個法去做,我想都能夠悟的到。因為我是系統的都講出來了。將來我們還要出書,對修煉提供更大的方便。

Sư phụ: Thượng Hải không tính là xa. Học viên chúng ta có việc gì cùng nhau giao lưu một chút thì cũng khá tốt. Bởi vì một số người nghe giảng xong rồi, nhưng tôi giảng nhiều quá không thể nhớ hết. Có thể dùng băng tiếng, cố gắng nghe nhiều băng tiếng. Thượng Hải cách chỗ của chư vị gần nhất chính là trạm phụ đạo Hợp Phì. Thượng Hải có lời mời, nhưng mãi không có xác nhận cuối cùng. Thượng Hải cũng có không ít người học, cũng có rất nhiều người tới học, có thể cùng nhau giao lưu đề cao. Thượng Hải, Vũ Hán, Quảng Châu, Trịnh Châu, Trùng Khánh, Thành Đô, nói chung là toàn quốc hầu như tất cả các thành phố lớn đều có trạm phụ đạo Pháp Luân Đại Pháp chúng ta, đều có thể liên hệ. Kỳ thực có một số sự việc, [nếu] tự mình chiểu theo Pháp này mà làm, tôi nghĩ đều có thể ngộ ra được. Bởi vì tôi đều đã giảng ra một cách hệ thống. Tương lai chúng ta sẽ còn xuất bản sách, cung cấp thuận tiện lớn hơn nữa cho tu luyện.

弟子:打坐時平時常常聞到一股香味?

Đệ tử: Khi đả tọa lúc bình thường thường hay ngửi thấy một mùi thơm?

師:這是很正常的,很正常的。因為這種香味它來源於另外的空間。

Sư phụ: Đây là điều rất bình thường, rất bình thường. Bởi vì loại mùi thơm này nó bắt nguồn từ không gian khác.

弟子:沒有參加學習班可以得到法輪嗎?

Đệ tử: Chưa tham gia lớp học thì có thể đắc Pháp Luân không?

師:真正修煉法輪大法的人,你照著書學,真能夠按照書中的要求去做,照樣可以得到。就是你真正修煉就能夠行。

Sư phụ: Người chân chính tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, chư vị học theo sách, thật sự có thể theo yêu cầu trong sách mà làm, thì có thể đắc được như nhau. Tức là chư vị chân chính tu luyện thì có thể [đắc] được.

弟子:睡覺中我用手摸到了法輪?左胸前,記的清清楚楚,用手推能左右的移動,可我醒來再一摸就甚麼都沒了?

Đệ tử: Trong khi ngủ con dùng tay sờ được Pháp Luân? Phía trước ngực trái, còn nhớ rất rõ ràng, dùng tay đẩy có thể di chuyển trái phải, nhưng khi con tỉnh dậy vừa sờ vào thì không có gì cả?

師:那是你主宰著另外的身體摸到了。對,你醒來這個身體去摸就沒有了。因為肉身得完全同化後才能摸到。

Sư phụ: Đó là chư vị làm chủ thân thể tại không gian khác mà sờ được. Đúng, khi chư vị tỉnh lại cái thân thể này mà sờ thì không còn nữa rồi. Bởi vì nhục thân phải hoàn toàn đồng hóa sau đó mới có thể sờ được.

弟子:這個宇宙特性真、善、忍中的忍字,在常人社會好理解,在高層次上沒有爭鬥沒有矛盾,也需要忍是為甚麼?宇宙為甚麼需要忍?

Đệ tử: Chữ Nhẫn trong đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn của vũ trụ này, trong xã hội người thường còn dễ lý giải, trên tầng thứ cao không có tranh đấu không có mâu thuẫn, mà cũng cần có Nhẫn là vì sao? Vũ trụ vì sao cần Nhẫn?

師:這個宇宙不像你理解的那樣,它是相當複雜的一個巨系統。除了有形的這種人類的存在之外,還有無形的這種人類存在。我們說的這個空間,說高層空間也有他們那一層次的問題存在著。我告訴你,在很多遙遠的地方都有像我們人類這樣的身體存在著,這樣色身的相當的多,遍布整個宇宙。而且在不同層次中還有不同的覺者,他們也有互相之間的社會關係的存在。還有更高層次的這種形式的存在,你理解的忍是站在人的思想基礎上理解的忍,忍還存在著更高的內涵。你沒有這東西能行嗎?你站在常人這個角度上你理解這個大法根本就理解不了。

Sư phụ: Vũ trụ này không giống như lý giải đó của chư vị, Nó là một hệ thống khổng lồ phức tạp lắm. Ngoài sự tồn tại của chủng nhân loại hữu hình này, còn có tồn tại chủng nhân loại vô hình. Không gian mà chúng tôi nói, chẳng hạn không gian cao tầng cũng có vấn đề tồn tại nơi tầng thứ của họ. Tôi bảo chư vị này, tại rất nhiều nơi xa xôi cũng đều có tồn tại thân thể giống nhân loại chúng ta, sắc thân như thế này khá nhiều, trải khắp vũ trụ. Hơn nữa trong các tầng thứ khác nhau còn có chư Giác Giả khác nhau, giữa họ với nhau cũng có tồn tại quan hệ xã hội. Cũng có hình thức như vậy thuộc tầng thứ cao hơn tồn tại; Nhẫn mà chư vị lý giải là Nhẫn được lý giải trên cơ sở tư tưởng con người, Nhẫn còn tồn tại nội hàm cao hơn. Chư vị [bảo] không có điều đó có được không? Chư vị đứng tại góc độ người thường đây mà chư vị lý giải Đại Pháp này thì hoàn toàn không thể lý giải được.

弟子:夫妻之間是否有失德的事?

Đệ tử: Có chuyện mất đức giữa vợ chồng với nhau hay không?

師:對。你老打你媳婦,我看你就欠她了,你老是罵你丈夫你同樣欠他了。都是人,都是生命,誰和誰都是這種業力關係。孩子和父母也是有這種關係存在,因為他的肉身是你給的,他的生命可不是你給的,所以也不能夠對他太過份。作為子女而養你生你的父母最起碼他撫養你了,對你是有恩有德的,你得尊敬他,否則你都是欠人家了。

Sư phụ: Đúng vậy. Chư vị cứ hay đánh vợ mình, tôi thấy chư vị đã nợ họ rồi; chư vị cứ hay mắng chửi chồng mình thì chư vị cũng nợ họ giống như thế. Đều là con người, đều là sinh mệnh, ai với ai cũng đều là loại quan hệ nghiệp lực ấy. Con cái và cha mẹ cũng có tồn tại loại quan hệ này, bởi vì nhục thân của nó là chư vị cấp cho, nhưng sinh mệnh của nó lại không phải chư vị cấp cho, cho nên cũng không thể đối xử với nó quá phận quá. Là con cái mà đối với cha mẹ nuôi dưỡng chư vị sinh ra chư vị thì tối thiểu họ đã nuôi dưỡng chư vị, có ân có đức đối với chư vị, chư vị phải tôn kính họ, nếu không chư vị cũng đã nợ người ta rồi.

弟子:參加班至今我的腿病未見好?

Đệ tử: [Từ khi] tham gia lớp học tới nay chân của con bệnh vẫn chưa thấy khỏi?

師:你放不下這顆心呀,我這裏不是來給你治病的。你放不下我甚麼也管不了,不怕你有病,就怕你放不下心來,再加上你不相信修煉更沒辦法。這裏管的是修煉人。一個常人,我的法身他不管。我也不能親手給你治病。你這種來治病的想法,這種思想不去掉,你不能把你自己當作煉功人怎麼管?我不是來治病的,是傳佛法的。

Sư phụ: Chư vị không buông được cái tâm này rồi, tại đây tôi không phải tới trị bệnh cho chư vị. Chư vị không buông bỏ được thì tôi không thể quản gì được; không sợ chư vị có bệnh, chỉ sợ chư vị không buông tâm xuống được; thêm nữa chư vị không tin vào tu luyện thì lại càng không có cách nào. Ở đây [tôi] quản là người tu luyện. Một người thường, thì Pháp thân của tôi không quản. Tôi cũng không thể tự tay trị bệnh cho chư vị. Cách nghĩ đến để trị bệnh này của chư vị, chủng tư tưởng này mà không bỏ đi, chư vị không thể coi mình là người luyện công thì quản thế nào? Tôi không phải tới để trị bệnh, mà là để truyền Phật Pháp.

弟子:夢中見到天目處法輪在轉?又看見白色物質,還看見武功高手等?

Đệ tử: Trong mộng thấy chỗ thiên mục Pháp Luân đang xoay chuyển? Lại nhìn thấy vật chất màu trắng, còn nhìn thấy cao thủ võ công v.v.?

師:那不是夢,就是你看見了。這都是正常的,看到甚麼都是正常的。不要執著於它,不要追求它,自然的、靜靜的觀察就可以了。

Sư phụ: Đó không phải là mộng, chính là chư vị đã nhìn thấy. Đây đều là bình thường, nhìn thấy điều gì thì cũng đều là bình thường. Đừng chấp trước nó, đừng truy cầu nó, cứ tự nhiên, tĩnh tĩnh quan sát là được rồi.

弟子:經常出現全身高、大、空的感覺?

Đệ tử: Thường xuất hiện cảm giác toàn thân cao, lớn, trống rỗng?

師:對。人的身體,在另外空間裏的身體,在煉功的時候他會變大,在另外空間的身體包括元神在內,都是可變大和縮小的。有的人變的感覺自己很小,有的人感覺很大,這都是正常現象。在煉功的時候都會出現,功在長而身體的容量也在加大。

Sư phụ: Phải rồi. Thân thể người, thân thể tại không gian khác, khi luyện công nó sẽ biến lớn, thân thể tại không gian khác bao gồm nguyên thần trong đó, đều có thể biến lớn và thu nhỏ. Có người biến tới mức cảm thấy mình rất nhỏ, có người cảm thấy rất lớn, đây đều là hiện tượng chính thường. Khi luyện công đều sẽ xuất hiện, công đang tăng trưởng mà dung lượng của thân thể cũng đang lớn hơn lên.

弟子:五套功法,第一、三、五套有男左女右的動作,哪邊為陰,哪邊為陽?

Đệ tử: [Trong] năm bài công pháp, bài một, bài ba, và bài năm có động tác nam tả nữ hữu, bên nào là âm, bên nào là dương?

師:左側視為陽,右側視為陰;後背視為陽,前面視為陰;上身視為陽,下身視為陰。

Sư phụ: Bên trái được coi là dương, bên phải được coi là âm; sau lưng được coi là dương, phía trước được coi là âm; thân trên được coi là dương, thân dưới được coi là âm.

弟子:地球上的眾生是否不再輪迴?

Đệ tử: Chúng sinh trên trái đất có phải sẽ không luân hồi nữa?

師:輪迴重點就是說這地球上的生命,怎麼能不輪迴?人當人不是目地,趕快抓緊當人這個機會好修煉,下一世不定轉生個甚麼東西了,沒人體就不讓你修煉了。但是不會人人都修煉的,人人都修也不一定都精進。人類社會永遠存在著。

Sư phụ: Trọng điểm của luân hồi chính là nói sinh mệnh trên địa cầu này, lẽ nào có thể không luân hồi? Con người làm người không phải là mục đích, hãy nhanh chóng nắm chắc cơ hội làm người này mà tu luyện cho tốt, đời sau không chừng sẽ chuyển sinh thành thứ gì đó, không có thân thể người thì sẽ không cho chư vị tu luyện nữa. Nhưng không phải ai ai cũng đều tu luyện, mọi người đều tu luyện cũng không nhất định đều tinh tấn. Xã hội nhân loại sẽ vĩnh viễn tồn tại.

弟子:夢中請老師簽字,簽了自己的名字,並聽老師談心性,醒後卻覺的夢中的人越來越不像老師?

Đệ tử: Trong mộng xin Thầy ký tên, ký xong tên của mình, và nghe Thầy nói về tâm tính, sau khi tỉnh dậy lại cảm thấy người trong mộng càng ngày càng không giống Thầy?

師:對。大家千萬注意這些事情,他怎麼能在夢裏給你簽名字,談甚麼心性,打著我們的旗號、講些甚麼東西都不一定。大家千萬注意,這就是求簽名的執著引起的。其實我們這個法都已經說的很明瞭,就是你想不想針對著去對照。大家想一想,我們一再強調,那個覺者是不能在那邊講法的,講法就是洩露天機,都能掉下來。他怎麼在夢裏敢給你講法哪,就是這個問題。所以我們一再講這些事情,都是魔的干擾。

Sư phụ: Đúng đó. Mọi người phải hết sức chú ý những chuyện này, họ lẽ nào có thể ký tên cho chư vị trong mộng, nói chuyện tâm tính gì gì đó, lấy cờ hiệu của chúng ta97, giảng những thứ gì đi nữa thì cũng không nhất định [là vậy]. Mọi người phải hết sức chú ý, đây chính là do chấp trước cầu ký tên dẫn khởi. Kỳ thực Pháp này của chúng ta đã thuyết rất rõ ràng [vấn đề này] rồi, chỉ là chư vị có muốn đối chiếu theo đó hay không. Mọi người nghĩ xem, chúng tôi lặp lại nhấn mạnh rằng, Giác Giả kia không thể giảng Pháp ở đó, giảng Pháp chính là tiết lộ thiên cơ, đều có thể rớt xuống. Họ sao dám giảng Pháp cho chư vị trong mộng chứ, chính là vấn đề này. Cho nên chúng tôi giảng đi giảng lại những điều này, [đó] đều là can nhiễu của ma.

弟子:老師講不修心性只煉動作是不得功的,狐狸之類的東西是不講心性的,它們只是做練功的動作而已,它們怎麼會得功?

Đệ tử: Thầy giảng không tu tâm tính chỉ luyện động tác thì không đắc công, những thứ như cáo là không giảng tâm tính, chúng chỉ là làm động tác luyện công mà thôi, chúng sao có thể đắc công?

師:常人也是有一定能量存在的,但是他很少。而且根基好的人先天還會帶很大的能量。這個動物之類的,它在另外的空間裏它不受常人社會所迷,可以看到能量,那麼它連偷帶練,它也能夠得一點功來。但是不允許它高。人根基好一點,你煉一煉功,你沒修心性他也能長上一點功來。為甚麼?因為你根基的心性可能高一點,你的心性標準在那兒。可是,你要想真正修煉,你就得像樣去修煉,不然你再往高長你也長不上去了,你不得正法。作為一般的人想修煉,都得真正去修煉心性,你才能夠脫穎而出,才能跳出來的。在另外的空間裏那些東西它可以得到一點能量,人也可以得到一點能量,但是那算不了甚麼。我講了,它千年修道,萬年修道都不夠佛用小手指一捻,它就甚麼都沒了,但是在常人中卻已經把它看的很玄了。

Sư phụ: Người thường cũng có tồn tại năng lượng nhất định, nhưng họ [có] rất ít. Hơn nữa người có căn cơ tốt bẩm sinh98 còn mang theo năng lượng rất lớn. Những thứ động vật này, nó tại không gian khác nó không chịu cái mê của xã hội người thường, có thể nhìn thấy năng lượng, vậy thì nó vừa trộm vừa luyện, nó cũng có thể đắc được một chút công. Nhưng không cho phép nó cao. Người mà căn cơ tốt một chút, chư vị luyện công một chút, chư vị không tu tâm tính chư vị cũng có thể tăng lên một chút công. Vì sao? Vì tâm tính của căn cơ chư vị có lẽ cao một chút, tiêu chuẩn tâm tính của chư vị tại đó. Nhưng mà, chư vị nếu muốn tu luyện chân chính, thì chư vị cần tu luyện cho hẳn hoi, nếu không chư vị [muốn] tăng trưởng lên cao hơn thì chư vị cũng không thể tăng trưởng lên được, chư vị không đắc chính Pháp. Là một người bình thường muốn tu luyện, đều phải chân chính tu luyện tâm tính, chư vị mới có thể vọt trội lên, mới có thể nhảy ra được. Tại không gian khác những thứ kia chúng có thể đắc được một chút năng lượng, [và] người kia cũng có thể đắc được một chút năng lượng, nhưng không đáng kể gì cả. Tôi đã giảng rồi, nó nghìn năm tu đạo, vạn năm tu đạo cũng không đủ cho ngón tay nhỏ của Phật vê một cái, nó liền không còn gì cả, nhưng trong người thường đã coi nó rất huyền [diệu] rồi.

弟子:有人說南方一些城市業力很大,我在上海讀大學受不受影響?

Đệ tử: Có người nói một số thành thị phía Nam nghiệp lực rất lớn, con học đại học ở Thượng Hải thì có bị ảnh hưởng không?

師:我跟大家講,到了末法時期不在甚麼地方,各地都有好人,各地都有不好的人。但是從業力大小上講,各地有各地不同的環境。但是人的思想從某一點上看,有的地區突出的不好,這是有的。

Sư phụ: Tôi giảng cho mọi người rằng, tới thời kỳ mạt Pháp không phải [là nói vấn đề] ở địa phương nào, [mà] các nơi đều có người tốt, các nơi đều có người không tốt. Nhưng từ nghiệp lực lớn nhỏ mà giảng, mỗi nơi có hoàn cảnh khác nhau của mỗi nơi. Nhưng tư tưởng của con người xét về một điểm nào đó, có địa khu bất hảo một cách nổi cộm, điều này thì có.

弟子:用天目看老師的照片藍色的變成了金黃?

Đệ tử: Dùng thiên mục nhìn thấy màu xanh lam trong ảnh của Thầy biến thành màu vàng kim?

師:這都是正常的。開天目的時候,這個眼睛透過一個空間就可能是另外一個顏色的。

Sư phụ: Đó đều là bình thường. Khi khai thiên mục, con mắt này thấu qua một không gian thì lại có thể [nhìn thấy] là một màu sắc khác.

弟子:法輪世界在宇宙中甚麼方向、甚麼位置?

Đệ tử: Thế giới Pháp Luân trong vũ trụ thì ở hướng nào, vị trí nào?

師:宇宙沒有人們認識的方向感。我說那是甚麼地方,多遠,這個距離怎麼跟你衡量啊?不能用常人那個公里來計算,但是哪,在我的身體可以反映出來,因為我和它連繫著。所以我們的學員看到我身後有山有水、樓台亭閣非常漂亮。有很多學員也跟我講,他看到了這些景象,其實就是你看到了它的一部份。

Sư phụ: Vũ trụ không có cảm nhận về phương hướng giống người ta nhận thức. Tôi nói rằng đó là nơi nào, bao xa, cự ly này sao có thể đo lường với chư vị đây? Không thể dùng [khái niệm] ki-lô-mét kia của người thường mà tính toán, nhưng mà, từ thân thể của tôi có thể phản ánh ra được, bởi vì tôi và Nó có liên hệ. Cho nên học viên của chúng ta nhìn thấy sau thân của tôi có non có nước, lâu đài đình các đẹp đẽ phi thường. Có rất nhiều học viên cũng nói với tôi, họ đã nhìn thấy những cảnh tượng này, kỳ thực đó là chư vị nhìn thấy một phần của Nó thôi.

弟子:法輪世界和淨土極樂世界的差別是甚麼?

Đệ tử: Thế giới Pháp Luân và thế giới Cực Lạc trong Tịnh Độ có gì khác biệt?

師:我們法輪世界更大,層次更高,也就是更遠。

Sư phụ: Thế giới Pháp Luân chúng ta to lớn hơn, tầng thứ cao hơn, cũng tức là xa hơn.

弟子:我是已被牧師受過洗禮的基督教徒?

Đệ tử: Con là giáo đồ Ki Tô99 đã được mục sư làm lễ rửa tội?

師:一樣的可以修大法。煉法輪大法你想煉就煉沒有關係。誰也不會懲罰你,都是正法修煉。你想在哪一門中那是自己說了算,我告訴你基督教它也是正教。只是都處在末劫末法時期了,教義現在的人都理解歪了。但是我沒看到耶穌的天國裏有東方人。耶穌和耶和華當時都不叫他的教向東傳。

Sư phụ: Có thể tu Đại Pháp như nhau. Luyện Pháp Luân Đại Pháp chư vị muốn luyện thì cứ luyện không sao cả. Không ai trừng phạt chư vị, đều là tu luyện chính Pháp. Chư vị muốn ở môn nào là do chư vị quyết định; tôi bảo chư vị này, Ki Tô giáo cũng là chính giáo. Chỉ là [họ] cũng vào thời kỳ mạt Pháp rồi, giáo nghĩa đều [bị] con người ngày nay lý giải lệch lạc rồi. Nhưng tôi không nhìn thấy trong thiên quốc của Jesus có người phương Đông. Jesus và Jehovah đương thời đều không bảo [tôn] giáo của Họ truyền về hướng Đông.

弟子:鑽研技術、努力學習文化知識算不算執著?

Đệ tử: Dùi mài nghiên cứu kỹ thuật, nỗ lực học tập tri thức văn hóa có được coi là chấp trước không?

師:我們做一個技術人員,在單位裏你的本職工作就是搞這個研究的。你拿不出成果來,做不出甚麼成績來,我想哪,你也對不起人家單位給你這份工作和工資。煉功的人處處都能體現出來是好人,我們做工作就應該把它做好,因為這不是執著。為甚麼說哪?你是在為別人謀福利,為社會更多的人創造價值。最起碼你是為單位,不是為你一個人。這是你在常人社會中應該做的事。說學習文化知識算不算執著?我講了,我們也要崇尚學習文化的。因為人要沒有知識,對我們這個法都很難理解了。說這個學生想上大學這心是不是執著心?你老想著上大學,家裏叨咕著你得上大學,精神壓力很大,我說這就是執著。那不是執著嗎?就像我那天講的,你做好你的本職工作,你對的起你的父母,對的起學校,你好好學習你該有的不就有了嘛。你不好好學習你能上大學嗎?你好好學習了,你該得到的不就得到了嗎?你自然學習就好了,你就會上大學,老是去想,去追求,那就是執著。

Sư phụ: Chúng ta [nếu] là nhân viên kỹ thuật, [thì] công việc chức trách của chư vị trong đơn vị là làm nghiên cứu. Chư vị không tạo ra thành quả, làm không ra thành tích gì, tôi nghĩ rằng, chư vị cũng không xứng đáng với công việc và tiền lương mà đơn vị cấp cho chư vị. Người luyện công thì đâu đâu cũng đều nên thể hiện ra là người tốt, công việc chúng ta làm thì nên làm nó cho tốt, bởi vì đây không phải chấp trước. Vì sao nói vậy? Chư vị là đang mưu cầu phúc lợi cho người khác, sáng tạo giá trị cho nhiều người trong xã hội hơn nữa. Ít nhất thì chư vị là vì đơn vị, không phải vì một cá nhân chư vị. Đây là việc chư vị nên làm trong xã hội người thường. Còn như học tập tri thức văn hóa có được coi là chấp trước không? Tôi đã giảng, chúng ta cũng cần ủng hộ việc học tập văn hóa. Bởi vì người ta nếu không có tri thức, thì đối với Pháp này của chúng ta cũng rất khó lý giải. Còn như học sinh này có tâm muốn vào đại học thì có phải là chấp trước không? Chư vị cứ mãi nghĩ tới việc vào đại học, ở nhà lẩm bẩm rằng chư vị phải vào đại học, áp lực tinh thần rất lớn, tôi nói rằng đó chính là chấp trước. Đó chẳng phải là chấp trước sao? Cũng giống như hôm nọ tôi giảng, chư vị làm tốt công việc chư vị phụ trách, chư vị xứng đáng với cha mẹ chư vị, xứng đáng với trường học, chư vị học tập cho tốt thì những gì chư vị đáng có chẳng phải sẽ có sao. Chư vị không học tập cho tốt thì chư vị có thể vào đại học không? Chư vị đã học tập tốt rồi, những gì chư vị nên đắc được chẳng phải sẽ đắc được sao? Chư vị học tập một cách tự nhiên là được rồi, [và] chư vị sẽ vào đại học; cứ nghĩ ngợi mãi, truy cầu mãi, thì đó chính là chấp trước.

弟子:聽了老師講課後對常人的事不感興趣了,對調級、其它一些書,沒有興趣了,不知道對不對?

Đệ tử: Sau khi nghe Thầy giảng bài thì không còn hứng thú với chuyện của người thường nữa, không còn hứng thú với việc điều chỉnh cấp bậc, với những cuốn sách khác, không biết có đúng không?

師:是這樣的,它其實是個自然現象,就是隨著我們自己煉功,思想的昇華,發現常人中有些事情就是很低的東西,常人這個層次中的東西。他就覺的沒啥意思了,其實是你的思想境界昇華上來了。我不經常講那句話嗎?我說這個煉功人,到了高層次上之後,就覺的和常人有一個鴻溝。你想說的東西別人聽不了,你也不想跟常人說。常人中講的那些個事情你根本都不願意聽。翻來覆去就是常人中的那點事,幾千年來都是叨咕叨咕常人中的那點事,你不愛聽了。往往這個修煉人話少,不愛吱聲,這也是一個原因,會出現這個問題。隨著你越來越昇華的時候,你會發現這些事情看的越來越淡了。

Sư phụ: Là như vậy, kỳ thực đó là hiện tượng tự nhiên, nghĩa là thuận theo việc bản thân chúng ta luyện công, tư tưởng thăng hoa, [sẽ] phát hiện một số sự việc nơi người thường chính là những thứ rất thấp, [là] những thứ tầng thứ người thường này. Họ sẽ cảm thấy không có ý nghĩa gì, kỳ thực là cảnh giới tư tưởng của chư vị đã thăng hoa lên trên rồi. Chẳng phải tôi thường giảng câu đó sao? Tôi nói rằng người luyện công này, sau khi lên tới tầng thứ cao, sẽ cảm thấy có một rãnh ngăn lớn với người thường. Điều chư vị muốn nói thì người khác nghe không vào, chư vị cũng không muốn nói chuyện với người thường. Những sự tình giảng trong người thường chư vị hoàn toàn không muốn nghe. Quanh đi quẩn lại chỉ là chút chuyện đó nơi người thường, mấy nghìn năm nay cứ nói đi nói lại chút chuyện nơi người thường đó, chư vị không thích nghe. Thông thường người tu luyện ít nói, không thích lên tiếng; đây cũng là một nguyên nhân, sẽ xuất hiện vấn đề này. Cùng với việc chư vị càng ngày càng thăng hoa, chư vị sẽ phát hiện càng ngày càng coi nhẹ những sự tình này.

弟子:第五套功法四個靜止動作各保持多長時間?

Đệ tử: [Trong] bài công pháp thứ năm có bốn động tác tĩnh chỉ100 mỗi [động tác] bảo trì thời gian bao lâu?

師:加持功能這個動作要求要煉很長時間的,有工作的每天早上按照錄音帶的時間就可以了,其實是沒有具體時間的。這套功法雖然簡單,可是難度非常大,因為要求人要坐很長時間的,現在有的坐不了那麼長時間。坐不了那麼長時間,你就能坐多長時間算多長時間吧。你把它均勻的分開,能坐多長時間然後你就各一半吧。其實那個打坐的時候,最後定下來要求時間更長,現在你做不到那一點,你就慢慢去煉。現在要硬性規定也根本不切合實際的。

Sư phụ: Động tác gia trì công năng này yêu cầu cần luyện thời gian rất lâu, [những người] đi làm thì buổi sáng hàng ngày làm theo thời gian trong băng ghi âm là khả dĩ, kỳ thực không có thời gian cụ thể. [Bài] công pháp này tuy đơn giản, nhưng độ khó lớn phi thường, bởi vì yêu cầu người ta phải ngồi một thời gian rất lâu, hiện tại có người không thể ngồi lâu được như vậy. Không thể ngồi lâu đến vậy, thì chư vị có thể ngồi được bao nhiêu lâu thì tính bấy nhiêu thời gian vậy. Chư vị chia đều nó ra, có thể ngồi thời gian bao lâu [để] sau đó chư vị chia ra một nửa. Kỳ thực khi ngồi đả tọa, cuối cùng định được rồi thì yêu cầu thời gian còn dài hơn, hiện nay chư vị chưa làm được điểm này, thì chư vị hãy từ từ mà luyện. Hiện nay muốn quy định cứng nhắc thì căn bản cũng không phù hợp với thực tế.

弟子:我們一起辦公的同事正在練邪法,將來長期合作應該怎麼做?

Đệ tử: Đồng nghiệp cùng văn phòng chúng con hiện đang luyện tà pháp, tương lai hợp tác thời gian lâu thì nên làm thế nào?

師:正在練邪法你就告訴他練的東西不好,他實在要練,就隨他好了。工作中的事情你就跟他正常工作往來,正法修煉甚麼也不怕,不管它,那沒有關係的。

Sư phụ: Đang luyện tà pháp thì chư vị hãy bảo với họ thứ họ luyện không tốt, họ thực sự vẫn muốn luyện, thì tùy họ vậy thôi. Sự việc trong công tác thì cứ qua lại làm việc với họ bình thường, tu luyện chính Pháp thì không sợ thứ gì cả, kệ nó, không hề gì đâu.

弟子:參加這次學習班的學員是否就是法輪大法的弟子?

Đệ tử: Học viên tham gia lớp học lần này phải chăng thì là đệ tử Pháp Luân Đại Pháp?

師:這已經講過了,真正修煉我就把你當弟子帶;不修煉那我就不把你當弟子。

Sư phụ: Điều này đã giảng rồi, chân chính tu luyện thì tôi sẽ coi chư vị như đệ tử mà dẫn dắt; không tu luyện thì tôi sẽ không coi chư vị là đệ tử.

弟子:學法輪大法能學功法以外的知識嗎?

Đệ tử: Học Pháp Luân Đại Pháp thì có thể học những tri thức ngoài công pháp [khí công] không?

師:那沒有關係。甚麼數理化學、幾何,你學你在常人中的知識。你還在常人中生活著,你只在法輪大法中修煉,你常人中的事情不做也不行。

Sư phụ: Không hề gì. Nào là toán lý hóa, hình học, các vị học tri thức của các vị nơi người thường. Chư vị vẫn đang sống nơi người thường, chư vị chỉ đang tu luyện trong Pháp Luân Đại Pháp; những việc nơi người thường chư vị không làm cũng không được.

弟子:煉功中有時口裏出現津液怎麼處理?

Đệ tử: Trong khi luyện công đôi khi trong miệng xuất hiện nước bọt thì xử lý thế nào?

師:你不要吐出來。津液你就嚥下去吧,因為我都給你下上現成的機了,你不用管它,它自然會嚥下去的。誰沒事老是吐吐沫的,金津玉液,所以煉功人把它看的是很珍貴的。

Sư phụ: Chư vị đừng nhổ ra. Nước bọt thì chư vị hãy nuốt vào trong, bởi vì tôi đã cài cho chư vị bộ cơ sẵn có cả rồi, chư vị kệ nó, và nó sẽ tự nhiên nuốt xuống. Ai rỗi việc cứ hay nhổ nước bọt ra, ‘kim tân ngọc dịch’101, cho nên người luyện công coi nó rất trân quý.

弟子:在眾人中有些人很壞,想法壞,這種人本應受到惡報;而行善樂於助人,行善的人卻沒有好報為甚麼?

Đệ tử: Trong quần chúng người ta có những người rất xấu, cách nghĩ xấu, loại người này lẽ ra nên gặp ác báo; còn người hành thiện vui vẻ giúp người, người hành thiện lại không có phúc báo là vì sao?

師:你這個意思就是說為甚麼好人活的不舒服,壞人活的這麼自在,是這個意思吧?告訴大家,好人活的不舒服是因為在高級生命來看,人活著不是為了讓你當人。所以你當人是因為你掉到這一步上來了,給你個機會讓你返回去。可是還不悟,在這裏又造了業了,又幹了壞事了,那麼就有業力輪報。覺者看,趕快還清這些個業力你好脫離這個地方。越好人他越讓你抓緊還業,你還這個東西你不就得吃苦遭罪嗎?所以往往有些人這一生當中,這個人很不錯,老是遭罪吃苦。甚至於做了甚麼好事人家也不理解,老栽贓陷害的。還有的人,自己做出甚麼成績了,功名也被別人奪去了。經常出來這個事情,是這樣的,我們看是這樣的,是這個道理。這是往往好人活的不太自在的一個原因,但不全是這樣,與業力大小有關係。目地是要你還業後趕快脫離苦海。那個壞人怎麼辦?壞人他也從這個慈悲心角度上去看了。那壞人你看他做壞事,他是給人家德哪,他做多少壞事給人家多少德。看這個人是在無知中害自己,他害他自己,你還怎麼管他?人家就不願懲罰他了,他自己已經在害自己了,你還懲罰他幹甚麼?!他做了壞事好像沒有懲罰他,沒人管他。他就像失了控一樣,誰也不愛管他。為甚麼哪?因為他就等著自己毀滅自己,等他死的時候就是徹底毀滅,甚麼都沒有了。他就是這樣的。人認為的好壞是反的。

Sư phụ: Ý của chư vị là nói vì sao người tốt sống không thoải mái, người xấu lại sống tự tại như vậy, là ý này phải không? [Tôi] bảo mọi người này, người tốt sống không thoải mái là vì từ sinh mệnh cao cấp mà nhìn, thì con người sống không phải vì để chư vị làm người. Cho nên chư vị làm người [thế này] là vì chư vị rớt đến bước này rồi, cấp cho chư vị cơ hội này để chư vị quay trở về. Nhưng [nếu] vẫn không ngộ ra, tại nơi đây còn tạo nghiệp nữa, còn làm chuyện xấu nữa, thì sẽ có nghiệp lực luân báo. Giác Giả thấy rằng, mau chóng trả xong những nghiệp lực này và chư vị thoát khỏi nơi này. Người càng tốt thì càng để chư vị gấp rút trả nghiệp, chư vị trả thứ này thì chẳng phải chư vị cần chịu khổ chịu tội sao? Cho nên thường thường có người tại đời này, người này khá lắm, [nhưng] mãi cứ chịu tội chịu khổ. Thậm chí làm việc gì tốt thì người ta cũng chẳng hiểu cho, cứ vu oan giá họa. Còn có người, bản thân làm được thành tích gì đó, công danh lại bị người khác đoạt mất. Thường xảy ra sự việc như thế, là như vậy đó, chúng tôi thấy là như vậy, là đạo lý ấy. Đây là một nguyên nhân mà người tốt thường sống không được tự tại lắm, nhưng cũng không phải hoàn toàn như vậy, [còn] có quan hệ với [lượng] nghiệp lực lớn nhỏ. Mục đích là muốn sau khi chư vị trả nghiệp nhanh chóng thoát ly bể khổ. Vậy người xấu kia thì làm thế nào? [Với] kẻ xấu họ cũng từ góc độ tâm từ bi mà xét. Kẻ xấu ấy chư vị thấy họ làm việc xấu, họ là đang cấp đức cho người ta, họ làm bao nhiêu việc xấu thì cấp cho người ta bấy nhiêu đức. Thấy rằng người này đang tự hại mình trong vô tri, họ hại bản thân họ, [thì] chư vị quản họ thế nào? Người ta cũng không muốn trừng phạt họ nữa, bản thân họ đã tự hại mình rồi, chư vị còn trừng phạt họ làm chi?! Người kia làm việc xấu và dường như không trừng phạt họ, không ai quản họ. Họ giống như bị mất kiểm soát, không ai muốn quản họ. Vì sao vậy? Vì họ chính đang đợi tự mình hủy diệt chính mình, đợi khi họ chết thì sẽ tiêu hủy triệt để, chả còn gì cả. Họ chính là như vậy. Tốt xấu mà con người nhìn nhận [thì ở cao tầng] là phản [đảo] lại.

往往常人衡量好壞人的標準都是站在個人的角度上去衡量,對我好我就說他好,或者在我的觀念中我認為好,我就說他好,那可不行。對你好就說好,你的觀念還是有限的常人觀念,他的標準也是低的。這個宇宙特性才是真正衡量好壞的標準。

Thông thường tiêu chuẩn mà người thường đo lường người tốt xấu đều là đứng từ góc độ cá nhân mà đo lường, đối tốt với tôi thì tôi nói rằng họ tốt, hoặc là trong quan niệm của tôi tôi cho rằng là tốt, thì tôi nói họ tốt; nhưng như thế không được. Đối tốt với chư vị thì nói là tốt, [thì] quan niệm của chư vị vẫn là quan niệm người thường hữu hạn, tiêu chuẩn của họ cũng thấp. Đặc tính của vũ trụ này mới là tiêu chuẩn chân chính để đo lường tốt xấu.

弟子:我在百貨大樓看見各種佛像,頭覺的很沉?

Đệ tử: Con nhìn thấy tượng Phật các loại trong cửa hàng bách hóa, đầu cảm thấy nặng trĩu?

師:是,有些壞東西無孔不入,但對大法的修煉者沒有事的。

Sư phụ: Phải rồi, có những thứ xấu không chỗ nào không xâm nhập vào102, nhưng với người tu luyện Đại Pháp thì không hề gì.

弟子:以前接觸過佛教語言,煉功時偶爾會冒出嗡叭轟彌……?

Đệ tử: Trước đây từng tiếp xúc với ngôn ngữ Phật giáo, khi luyện công ngẫu nhiên vọt ra ‘úm-ba-hông-mi…’?

師:這是密宗中的,這是密宗中的咒語。現在邪門歪道的東西也在念,都在用,連道家也在念,現在也亂了套,別受這些東西干擾。有的人睡覺中還打大手印,打著各種手印,你都得放下,不能打。我教你的東西就是這些,你就把住這些東西煉。

Sư phụ: Đó là trong Mật tông, đó là chú ngữ trong Mật tông. Hiện nay những thứ tà môn oai đạo [người ta] cũng đang niệm, cũng đang dùng, ngay cả Đạo gia cũng niệm, hiện nay cũng đã loạn cả rồi, đừng để những thứ này can nhiễu. Có người khi đang ngủ còn đánh ra đại thủ ấn, đánh ra các loại thủ ấn, chư vị đều phải buông bỏ, không thể đánh. Điều tôi dạy chư vị chính là những điều này, chư vị hãy nắm chắc những điều này mà luyện.

弟子:發生食物中毒該怎麼辦?

Đệ tử: Xảy ra chuyện ngộ độc thức ăn thì nên làm thế nào?

師:我們真正修煉的學員這種事情太少了。我們碰到甚麼與修煉無關的難,作為一個真正修煉的人都能躲開,保證是這樣的。發生再大的難都能躲開,但是前提是真正修煉的人。不能夠達到修煉的標準,在常人中根本不要求提高自己的心性就不好說了。有人問我說,說我煉這麼長時間了這個病怎麼老也不好哇?你的心性如何呀?你做幾個動作就想病好了?我們也不是來給你治病的,我們這裏是修煉,不就是這個問題嗎?說如果發生中毒,我看我們學員中還真沒有這種現象。有的人碰到這種事情,那個碗都打碎了也進不了嘴。如果你真正中毒了,那你真得去醫院。因為你要是真不能夠把握自己,知道自己不是真正的煉功人出現這個問題,你還真得去看醫生。作為煉功的人,這些事情一般不會出現的。

Sư phụ: [Với] học viên tu luyện chân chính chúng ta thì loại việc này quá ít. Chúng ta mà gặp nạn nào không liên quan tới tu luyện, là người tu luyện chân chính thì đều có thể tránh được, đảm bảo là như vậy. Phát sinh nạn lớn đến mấy cũng có thể tránh được, nhưng tiền đề phải là người tu luyện chân chính. [Nếu] không thể đạt tiêu chuẩn tu luyện, tại người thường hoàn toàn không yêu cầu đề cao tâm tính tự thân thì khó nói lắm. Có người hỏi tôi rằng, nói tôi đã luyện thời gian lâu như vậy sao bệnh này mãi không khỏi nhỉ? Tâm tính của chư vị như thế nào chứ? Chư vị làm vài động tác liền muốn khỏi bệnh ư? Chúng tôi cũng không phải là tới để trị bệnh cho chư vị, chúng tôi tại đây là tu luyện, chẳng phải vấn đề này sao? Nói như nếu xảy ra trúng độc, tôi thấy rằng trong học viên của chúng ta vẫn quả thực không có hiện tượng này. Có người gặp chuyện loại này, thì cái bát đó cũng đánh vỡ rồi không lọt vào miệng. Nếu chư vị quả thực trúng độc, vậy chư vị thật sự phải đi bệnh viện. Bởi vì nếu chư vị quả thực không thể giữ vững bản thân, biết mình không phải người luyện công chân chính mà xuất hiện vấn đề này, thì chư vị thật sự vẫn phải đi khám bác sỹ. Là người luyện công, những việc này thông thường sẽ không xuất hiện.

弟子:煉法輪大法的人獻血沒問題吧?

Đệ tử: Người luyện Pháp Luân Đại Pháp hiến máu chắc không có vấn đề gì?

師:當然我們也不主張不讓你獻。反正你這個血要打給別人那可太珍貴了。但是哪,這些事情好像我們法輪大法學員、弟子中都很少出現,這個事我不能說絕對了。實在就攤上讓你獻那你也得獻。

Sư phụ: Đương nhiên chúng tôi cũng không chủ trương không cho chư vị hiến. Dù sao thì máu của chư vị nếu hiến cho người khác thì quá trân quý. Nhưng mà, những việc này trong học viên, đệ tử Pháp Luân Đại Pháp chúng ta dường như cũng rất ít xuất hiện, việc này tôi không thể nói một cách tuyệt đối. Thực sự mà gặp phải [việc] khiến chư vị hiến thì chư vị cũng phải hiến thôi.

弟子:希望您每年逢年過節哪怕一年一次以電視形式來跟我們學員見面?

Đệ tử: Hy vọng hàng năm vào dịp Tết hoặc ngày lễ khác dù là mỗi năm một lần Ngài có thể dùng hình thức truyền hình để gặp mặt học viên chúng con?

師:那是電視台的事。其實有些事情我們應該是隨緣的。

Sư phụ: Đó là việc của đài truyền hình. Thực ra một số việc chúng ta nên là tùy duyên.

弟子:我在煉功時一個大喜字蓋上布漸漸的拿開來,叫我看?

Đệ tử: Khi con luyện công một chữ ‘hỷ’ lớn được trùm bởi tấm vải dần dần được kéo mở ra, để con xem?

師:這是告訴你得了法,點化你,學了大法了。

Sư phụ: Điều này chính là bảo rằng chư vị đã đắc Pháp, điểm hóa chư vị, [rằng] đã học Đại Pháp rồi.

弟子:業力很大的人總要與功較高人在一起煉,對高功人有甚麼影響?

Đệ tử: Người nghiệp lực rất lớn toàn muốn cùng luyện với người công cao hơn, thì có ảnh hưởng gì đến người cao công không?

師:一點影響都沒有,在功高的人看來,業力啥也不是。

Sư phụ: Không hề có chút ảnh hưởng nào, đối với người công cao mà xét, thì nghiệp lực không là gì cả.

弟子:法輪在甚麼情況下變形?

Đệ tử: Pháp Luân biến dạng trong tình huống nào?

師:摻進了別的功煉了,意念中摻進別的功的意念煉了也變形。外力是永遠都破壞不了法輪的。

Sư phụ: Trộn lẫn công khác vào mà luyện, trong ý niệm trộn lẫn ý niệm của công khác mà luyện thì cũng biến dạng. Ngoại lực vĩnh viễn cũng không phá hoại nổi Pháp Luân.

弟子:宇宙中的成、住、壞是它自己演化的結果還是大覺者控制的?

Đệ tử: Thành-trụ-hoại trong vũ trụ là kết quả diễn hóa của chính Nó hay là do Đại Giác Giả khống chế?

師:這個宇宙就是這樣存在的形式。同時這個宇宙又有相當大的覺者能夠控制它。但是也是按照這個宇宙這個理在行事,叫自然而生、自然而滅。它滅不滅與他沒有關係,管不著他,它炸了也炸不著他,他再重造。宇宙的歷史太漫長了,佛道神無需考慮,而對人那就很可怕。

Sư phụ: Vũ trụ này chính là [theo] hình thức tồn tại như thế. Đồng thời vũ trụ này lại có Giác Giả rất to lớn có thể khống chế Nó. Nhưng cũng là chiểu theo Lý của vũ trụ này mà hành sự, gọi là ‘tự nhiên mà sinh, tự nhiên mà diệt’103. Nó diệt hay không diệt thì cũng không quan hệ gì đến Ông, không quản được Ông, Nó nổ tung thì cũng không nổ được Ông, Ông lại tạo lại. Lịch sử của vũ trụ quá lâu dài rồi, Phật Đạo Thần thì khỏi cần suy nghĩ, còn đối với con người thì rất đáng sợ.

弟子:我肚子裏法輪在旋轉、發熱、發脹是正常的嗎?

Đệ tử: Pháp Luân tại bụng dưới của con đang xoay chuyển, nóng lên, trướng lên thì có bình thường không?

師:哎呀,你肚子裏都有法輪,那麼高級生命的東西,你心裏頭怎麼還不穩哪。法輪還能害了你嗎?!換句話說那是佛哎!

Sư phụ: Ái chà, trong bụng của chư vị có Pháp Luân rồi, [là] thứ của sinh mệnh cao cấp, [mà] trong tâm chư vị sao vẫn bất ổn. Pháp Luân còn có thể hại chư vị sao?! Nói cách khác đó chính là Phật đó!

弟子:延吉「文革」前有五座廟,「文革」時被拆掉了。據說現在重建,法輪大法學員能否捐款?

Đệ tử: Trước “Cách mạng Văn hóa” Diên Cát có năm ngôi chùa, thời “Cách mạng Văn hóa” bị dỡ bỏ. Nghe nói hiện nay đang xây lại, học viên Pháp Luân Đại Pháp có thể quyên góp không?

師:我想這些事情都不要管,人家捐人家的,人家修人家那一法門的東西。

Sư phụ: Tôi nghĩ rằng những sự việc này đều không nên quản, người ta quyên góp cho người ta, người ta tu điều trong pháp môn kia của người ta.

弟子:我下定決心好好煉法輪大法,經常想著這樣要求自己算不算執著?

Đệ tử: Con hạ quyết tâm luyện thật tốt Pháp Luân Đại Pháp, thường hay nghĩ yêu cầu bản thân như vậy thì có tính là chấp trước hay không?

師:要求自己做好人這不算執著,想返本歸真,這是人的本性出來了。反而能破執著。

Sư phụ: Yêu cầu bản thân làm người tốt đó không tính là chấp trước, muốn phản bổn quy chân, đây là bản tính con người đã xuất lai. Ngược lại còn có thể phá trừ chấp trước.

弟子:我是一名居士請問讀楞嚴經可以嗎?

Đệ tử: Con là một cư sỹ xin hỏi đọc kinh Lăng Nghiêm được không?

師:我們有修煉法輪大法的這本書,你可以看,將來還要出的。你老看楞嚴經、金剛經,這個經那個經的,你不就是修煉那一門的東西了嗎?就是這個問題。我也不反對你看,你去修煉那一門好了,你不能腳踩兩隻船就是這個意思。

Sư phụ: Chúng ta có sách tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, chư vị có thể đọc, tương lai còn xuất bản nữa. Chư vị cứ đọc kinh Lăng Nghiêm, kinh Kim Cương, kinh này kinh khác, thì chẳng phải chư vị tu luyện những điều của môn đó rồi sao? Chính là vấn đề này. Tôi cũng không phản đối chư vị xem, [thế] chư vị đi tu luyện môn đó là được rồi; [nói] chư vị không thể chân đặt trên hai thuyền chính là ý này.

弟子:教有輕度精神病人?

Đệ tử: Dạy cho người mắc bệnh tâm thần nhẹ?

師:我想你最好還是別招惹這麻煩,因為他控制不了自己,他聽不明白。到他腦袋被外來信息控制的時候,甚麼魔都能干擾他,那個時候你就不好收拾。他一來那個勁的時候,甚麼魔都能控制他,所以他不但不起好作用,他還要破壞法輪大法的形像。我們歷來就是不願教精神病人學就是這個意思,他根本控制不了,一到那個時候,甚麼魔都干擾他,甚麼都破壞了,都白煉。

Sư phụ: Tôi nghĩ rằng tốt nhất chư vị vẫn là đừng chiêu mời phiền phức này, vì họ không thể khống chế bản thân, họ nghe không minh bạch. Tới khi não bộ của họ bị những tín tức ngoại lai khống chế, ma nào cũng có thể can nhiễu họ, lúc đó chư vị sẽ không dễ xử lý. Đến khi họ lên cơn, ma nào cũng có thể khống chế họ, cho nên họ không những không khởi tác dụng tốt, họ còn phá hoại hình tượng của Pháp Luân Đại Pháp. Xưa nay chúng tôi đều không muốn dạy học cho người bệnh tâm thần chính là ý đó, họ hoàn toàn không khống chế nổi, hễ tới lúc đó, ma nào cũng can nhiễu tới họ, thứ gì cũng bị phá hoại, luyện cũng như không.

弟子:前幾日朋友來家帶來附體,次日早煉功那附體便來一起煉功,煉完就走了,這應該怎麼辦?

Đệ tử: Vài ngày trước bạn bè tới nhà mang theo phụ thể, sáng sớm hôm sau luyện công con phụ thể đó tiện thể tới cùng luyện công, luyện xong thì rời đi, chuyện này nên làm thế nào?

師:看到這個事情叫叫我的名字,其實也是考驗你的。這些事情很複雜的。

Sư phụ: Nhìn thấy sự việc này hãy gọi gọi tên của tôi, kỳ thực cũng là khảo nghiệm chư vị. Những chuyện này rất phức tạp.

弟子:如何捍衛大法?

Đệ tử: Làm thế nào để bảo vệ Đại Pháp?

師:我們不能跟人家去打去鬥的,不給他市場就完了。修煉人遇到干擾本身就是考驗的一關。

Sư phụ: Chúng ta không thể đi đánh đi đấu với người ta, [chúng ta] không cấp thị trường104 cho họ là được rồi. Bản thân can nhiễu mà người tu luyện gặp phải chính là một quan [khảo nghiệm].

弟子:有人說法輪大法的壞話怎麼對待?

Đệ tử: Có người nói xấu Pháp Luân Đại Pháp thì đối đãi thế nào?

師:不理他。如果他就硬說,橫不講理的,你能跟他一樣去對待嗎?不要理他,沒有市場就完了,其實這也是考驗人心性出現的。

Sư phụ: Không để ý tới họ. Nếu họ cứ nói một cách ngoan cố, ngang ngược vô lý, thì chư vị có thể đối đãi giống họ không? Không để ý tới họ, không có thị trường là xong, kỳ thực chuyện này xuất hiện cũng là để khảo nghiệm tâm tính người ta.

弟子:你給我們的法輪會不會變強?

Đệ tử: Pháp Luân mà Thầy cấp cho chúng con có trở nên mạnh hơn không?

師:會越來越強烈的,自己就可以變的很大也可變的很小,在另外空間裏他可以變化。

Sư phụ: Sẽ càng ngày càng mạnh mẽ, tự Nó có thể biến thành rất lớn cũng có thể biến thành rất nhỏ, tại không gian khác Nó có thể biến hóa.

弟子:煉功時暫時還不能入靜會不會煉出邪法?

Đệ tử: Lúc luyện công tạm thời vẫn chưa thể nhập tĩnh thì có luyện ra tà pháp không?

師:那不會的。你不想壞的東西,把自己當作煉功人。抵制思想業在頭腦中反應的壞念頭。

Sư phụ: Sẽ không. Chư vị không nghĩ thứ xấu, coi mình là người luyện công. Bài trừ niệm xấu mà nghiệp tư tưởng phản ánh trong đầu não.

弟子:您說樹是有靈性的它可以修煉嗎?能可以成佛嗎?

Đệ tử: Ngài nói rằng cây có linh tính thì nó có thể tu luyện không? Có thể thành Phật không?

師:除了人都不讓其修煉得正法,萬物都有靈不只是樹,只有人才可以修正法得道的。

Sư phụ: Ngoài con người ra thì không cho những thứ khác tu luyện đắc chính Pháp, vạn vật đều có linh không chỉ là cây, chỉ có con người mới có thể tu chính Pháp đắc Đạo.

弟子:煉大法能不能供祖先的牌位?

Đệ tử: Luyện Đại Pháp có thể thờ cúng bài vị của tổ tiên không?

師:有些所謂的祖先不是你先天的祖宗,那不是甚麼得道之人,也不是甚麼高層次上的佛。那就是低層次上的陰魂。它的心性是很有限的,都可能干擾你修煉。你有那心就好好修煉,得正果後去度他們。

Sư phụ: Có những thứ gọi là ‘tổ tiên’ [nhưng] không phải là tổ tông tiên thiên của chư vị, đó không phải là người đắc Đạo nào cả, cũng không phải Phật nào ở cao tầng. Đó chính là âm hồn tại tầng thấp. Tâm tính của nó rất hữu hạn, đều có thể can nhiễu chư vị tu luyện. Chư vị có cái tâm đó thì hãy tu luyện cho tốt, sau khi đắc chính quả thì đi độ họ.

弟子:煉功產生慈悲心是不是流淚?

Đệ tử: Luyện công [mà] sản sinh tâm từ bi thì sẽ chảy nước mắt phải không?

師:兩種情況,現在有的煉功人老是好流淚,一看到我他也要流淚。煉功時候也想流淚。這是怎麼回事哪?就是副元神看到了我給你身體清理出去了多少不好的東西,同時我又給了你無比珍貴的東西,所以他非常激動。你主元神不知道。為甚麼會老是流淚?就是因為他看到了。你主元神真要自己看到了,你怎麼感謝我這個心情你都表達不了。再有一種情況,我們煉到一定成度的時候,也會出慈悲心,也會流淚。但是那是有針對性的。看到殺生的,看到這個人受欺負,反正是它有針對性的也會流淚。這就是慈悲心出來了。

Sư phụ: Có hai loại tình huống, bây giờ có người luyện công cứ hay chảy nước mắt, hễ nhìn thấy tôi họ cũng muốn rơi lệ. Khi luyện công [họ] cũng muốn rơi lệ. Đây là chuyện gì? Đó chính là phó nguyên thần nhìn thấy tôi thanh lý ra bao nhiêu thứ bất hảo khỏi thân thể chư vị, đồng thời tôi lại cho chư vị những thứ trân quý vô tỷ, do đó nó vô cùng kích động. Chủ nguyên thần của chư vị không biết. Vì sao cứ rơi lệ? Chính là vì nó đã nhìn thấy. Chủ nguyên thần của chư vị nếu thật sự tự mình nhìn thấy rồi, chư vị làm thế nào để cảm tạ tôi tâm tình ấy của chư vị cũng không thể biểu đạt nổi. Còn có một tình huống nữa, khi chúng ta luyện tới một trình độ nhất định, cũng sẽ xuất tâm từ bi, cũng sẽ rơi lệ. Nhưng đó đều có tính nhắm thẳng. Nhìn thấy việc sát sinh, nhìn thấy người này bị bắt nạt, nói chung nó có tính nhắm thẳng thì cũng sẽ rơi lệ. Đó chính là tâm từ bi đã xuất ra.

弟子:煉功時突然有事怎麼辦?

Đệ tử: Khi luyện công đột nhiên có việc thì làm thế nào?

師:有事我都講過了。我們不講收功,你起來就走,該幹甚麼幹甚麼。這個法輪他自己會一下把你散射的能量都收回來。

Sư phụ: [Tình huống] có việc thì tôi đã giảng rồi. Chúng ta không giảng thu công, chư vị đứng dậy là đi thôi, cần làm gì thì làm đó. Pháp Luân này tự Nó sẽ ngay lập tức thu hồi lại năng lượng mà chư vị tản xạ.

弟子:煉法輪樁法時是不是兩臂感覺法輪轉才算抱圓了?

Đệ tử: Khi luyện Pháp Luân Trang Pháp có phải hai tay cảm thấy Pháp Luân xoay chuyển thì mới được tính là ôm tròn?

師:那不一定。有個別人感覺不到轉,這裏百分之八十到九十的人都可以感覺到轉。

Sư phụ: Không nhất định thế. Có người cá biệt không cảm giác được sự xoay chuyển, 80 đến 90% số người tại đây đều có thể cảm giác được sự xoay chuyển.

弟子:修煉時能不能戴金銀手飾?

Đệ tử: Khi tu luyện có thể đeo trang sức bằng vàng bạc không?

師:煉功的時候最好別戴這些東西,其實人戴它無非是顯示心吧。結婚了戴個戒指這是標誌結婚了,我說這個倒沒有太大關係。但是練氣的時候它會起阻礙作用。金銀都能發出一種黃白物質,像一種氣似的,它能起到一種阻礙作用。因為它比你常人身體裏這個氣強,所以它能阻礙著。煉功它阻礙不住。有些人可能覺的能避邪,當然各種心態都有。煉功你怕甚麼邪?正法修煉甚麼也不怕。

Sư phụ: Khi luyện công tốt nhất đừng đeo những thứ này, kỳ thực người ta đeo nó không gì khác là tâm hiển thị thôi. Đã kết hôn mà đeo nhẫn đó là biểu thị đã kết hôn, tôi nói rằng điều đó thì lại không có vấn đề gì lắm. Nhưng khi luyện khí nó sẽ khởi tác dụng cản trở. Vàng bạc đều có thể phát ra một loại vật chất [màu] vàng trắng, tựa như một loại khí, nó có thể khởi một loại tác dụng cản trở. Bởi vì nó mạnh hơn khí trong thân thể người thường của chư vị, cho nên nó có thể cản trở. Luyện công thì nó không cản trở nổi. Có một số người có thể cảm thấy rằng [nó] có thể tránh tà, đương nhiên các chủng tâm thái đều có. Luyện công thì chư vị còn sợ tà gì? Tu luyện chính Pháp thì cái gì cũng không sợ.

弟子:煉功時手總是熱的?

Đệ tử: Khi luyện công tay luôn nóng?

師:那就對了。病都是屬於陰性的東西。我們有的時候會出現陰陽分明的狀態,身體一半是涼的一半熱的。它還會換位,說這邊是涼的,那邊是熱的。這都是屬於正常現象,這屬於陰陽分明的狀態。

Sư phụ: Vậy là đúng rồi. Bệnh đều là thứ thuộc về âm tính. Đôi khi chúng ta sẽ xuất hiện trạng thái âm dương phân minh, thân thể một nửa thì mát, một nửa thì nóng. Nó còn có thể hoán vị, chẳng hạn bên này thì mát, bên kia thì nóng. Đó đều thuộc về hiện tượng bình thường, đó thuộc về trạng thái âm dương phân minh.

弟子:煉法輪大法的人能不能給死去的人磕頭?

Đệ tử: Người luyện Pháp Luân Đại Pháp có thể dập đầu trước người đã chết không?

師:你要真是個煉功人出了功的,它還真受不了你這一頭。你這一頭磕下去,它得嚇的影都沒了。要是一個真的不太好的,你這一頭能把它磕死。當然常人分辨不了這些事情。修煉的人你可以鞠躬,打佛的禮節的手勢,我想比較好。不能給死去的人磕頭。它們還等你度呢,你給它磕甚麼頭。

Sư phụ: Nếu chư vị thực sự là một người luyện công đã xuất công rồi, thì nó thực sự không thể chịu nổi cái dập đầu này của chư vị. Chư vị hễ dập đầu tiếp, nó sẽ sợ tới không còn bóng dáng đâu. Nếu thực sự là thứ không tốt lắm, thì cái dập đầu này của chư vị sẽ khiến nó phải chết. Đương nhiên người thường không thể phân biệt được những sự việc này. Người tu luyện chư vị có thể khom lưng {cúi mình}, làm thế tay theo lễ tiết của nhà Phật, tôi nghĩ cũng khá tốt. Không thể dập đầu trước người đã chết. Chúng còn đang đợi chư vị độ đấy, chư vị dập đầu trước nó gì chứ.

弟子:心性上不去打坐會痛嗎?

Đệ tử: Tâm tính không thể nâng lên được thì đả tọa sẽ đau phải không?

師:你心性上去了腿也要痛的。

Sư phụ: Chư vị tâm tính nâng lên rồi chân vẫn sẽ đau.

弟子:疊扣小腹和雙手推動法輪時順時針轉動四次手掌是否還是蓮花掌?

Đệ tử: Điệp khấu tiểu phúc và hai tay đẩy Pháp Luân chuyển động thuận chiều kim đồng hồ bốn lần [thì] bàn tay có phải vẫn là liên hoa chưởng phải không?

師:對。都是蓮花掌,五套功法自始至終都是這個形狀的。

Sư phụ: Đúng vậy. Đều là liên hoa chưởng, năm bài công pháp từ đầu đến cuối đều là hình dạng ấy.

弟子:有的刊物上發表過狐狸變成人是不是真的?

Đệ tử: Có tạp chí từng đăng rằng cáo biến thành người có phải thật không?

師:這個宇宙本來就是很複雜的,只是人不相信,這些事情我們煉功人別管它了,這與我們煉功人沒有關係就別問了。

Sư phụ: Vũ trụ này vốn rất phức tạp, chỉ là con người không tin, những sự việc này người luyện công chúng ta mặc kệ nó, điều này không có quan hệ với người luyện công chúng ta nên đừng hỏi nữa.

弟子:研究周易能不能煉法輪大法?

Đệ tử: Nghiên cứu Chu Dịch có thể luyện Pháp Luân Đại Pháp không?

師:你最好放下,那裏邊也帶有一些其它的東西。比起大法來它太小了,不值得修大法的人去研究,除非是你的正常工作。

Sư phụ: Tốt nhất là chư vị hãy buông bỏ, bên trong đó cũng mang theo một số thứ khác. So với Đại Pháp thì nó quá nhỏ bé, không đáng để người tu Đại Pháp nghiên cứu, trừ khi đó là công tác bình thường của chư vị.

弟子:人這個層次業力是很重的,怎麼出現大根器之人?

Đệ tử: Tầng thứ nơi con người này nghiệp lực rất nặng, làm sao [có thể] xuất hiện người đại căn khí?

師:一般都是有來頭的吧,都是有來頭的。

Sư phụ: Thông thường đều là có lai lịch, đều là có lai lịch cả đấy.

弟子:神通加持法中用力和氣機是否相矛盾?

Đệ tử: Trong Thần Thông Gia Trì Pháp dùng lực và khí cơ thì có mâu thuẫn với nhau không?

師:打手印的時候是小臂帶動大臂,所以小臂和手腕之間,連手指都是有一定力度的。到加持神通時就是放鬆的,完全就是放鬆的了。與機是巧妙的配合。

Sư phụ: Khi đả thủ ấn là cẳng tay dẫn động bắp tay105, cho nên giữa cẳng tay và cổ tay, ngay cả ngón tay cũng có một lực độ nhất định. Tới khi gia trì thần thông thì thả lỏng, hoàn toàn là thả lỏng. Phối hợp khéo léo với bộ cơ.

弟子:煉功到哪個層次才有法身?

Đệ tử: Luyện công tới tầng thứ nào thì mới có Pháp thân?

師:那個法身都是佛的形像。藍頭髮、穿的黃袈裟,修煉得達到那個層次才能修出法身的。

Sư phụ: Pháp thân kia đều là hình tượng Phật. Tóc màu xanh lam, mặc áo cà sa màu vàng, tu luyện phải đạt tới tầng thứ đó mới có thể tu xuất Pháp thân.

弟子:能不能吃藥?

Đệ tử: Có được uống thuốc hay không?

師:有的人問我若修煉法輪大法吃藥的話就不行了嗎?你吃不吃藥我不管,我這裏只是要求煉功人按照煉功人的標準去做。你做不到這一點,你沒有按照這個心性標準去做,到時你不吃藥出了問題了,你說李洪志不叫你吃的。大家想一想,你不能把你當作煉功人,你出現問題了,你不吃藥當然會出現危險了。常人他就是那樣的。我們學員也不要把它當成新學員入門的條件或規定,要叫其自己悟,但可以點化。

Sư phụ: Có người hỏi tôi nếu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp mà uống thuốc thì không được phải không? Chư vị có uống thuốc hay không tôi không quản, tôi ở đây chỉ yêu cầu người luyện công làm theo tiêu chuẩn của người luyện công. Chư vị không làm được điều đó, chư vị không chiểu theo tiêu chuẩn tâm tính này mà làm, tới lúc đó chư vị không uống thuốc mà xuất hiện vấn đề, chư vị nói Lý Hồng Chí không cho chư vị uống. Mọi người thử nghĩ xem, chư vị không thể coi chư vị là người luyện công, [nếu] chư vị xuất hiện vấn đề, chư vị không uống thuốc đương nhiên sẽ xuất hiện nguy hiểm. Người thường họ chính là như vậy. Học viên chúng ta cũng không được coi nó là điều kiện hoặc quy định cho học viên mới nhập môn, phải để cho bản thân họ ngộ, nhưng có thể điểm hóa.

弟子:教育子女中因迫不及待情況下打罵子女是否會給自己留下業力?

Đệ tử: Trong khi giáo dục con cái do tình huống bức bách mà đánh mắng con cái thì có lưu lại nghiệp lực cho mình không?

師:這個孩子是應該管教的,不管教就縱容也失德,你不管教就失去你做父母的責任了,所以就應該管的。孩子不聽話,說我們管重一點也無所謂,但是你不要把他當作像牲畜一樣,那可不行,這要分清。我們管孩子也別動氣,你真動氣也不行,那你自己還有個忍的問題。忍不是生了氣才去忍,而是不生氣。他真正的生命不是你給的,孩子也是有他先天來源的地方,所以他也是獨立的生命。要理智的管。

Sư phụ: Con cái thì nên quản giáo, không quản giáo mà dung túng cũng sẽ mất đức, chư vị không quản giáo thì sẽ thất trách với trách nhiệm làm cha mẹ của chư vị, cho nên cần phải quản. Con cái không nghe lời, chẳng hạn chúng ta quản nặng một chút cũng không vấn đề gì, nhưng chư vị không được coi nó như súc sinh, như vậy thì không được, điều này phải phân rõ. Chúng ta quản con cái cũng đừng nóng giận, chư vị thực sự nóng giận cũng không được, như thế chư vị vẫn có vấn đề Nhẫn. Nhẫn không phải là tức giận rồi mới nhẫn, mà là không tức giận. Sinh mệnh chân chính của nó không phải chư vị cấp cho, con cái cũng có nơi nguồn gốc tiên thiên của nó, cho nên nó cũng là sinh mệnh độc lập. Phải quản một cách lý trí.

弟子:若練了附體功會產生甚麼後果?

Đệ tử: Nếu luyện công [của] phụ thể thì có xảy ra hậu quả gì không?

師:那也就有了附體了。每天吸你身體的精華。

Sư phụ: Vậy chính là có phụ thể rồi. Hàng ngày hút tinh hoa của thân thể chư vị.

弟子:煉法輪大法能炸盤嗎?

Đệ tử: Luyện Pháp Luân Đại Pháp có thể nổ tung không?

師:不能。付出多少得多少,不會炸的。

Sư phụ: Không thể. Phó xuất bao nhiêu đắc được bấy nhiêu, sẽ không bị nổ.

弟子:在煉功點上誰能早打雙盤、打的時間長就認為他的功煉的好?

Đệ tử: Tại điểm luyện công ai có thể sớm ngồi song bàn, thời gian đả tọa lâu thì cho là công của họ luyện được tốt?

師:他坐的時間長,只能說在這一個方面煉的好。至於說人整體修煉怎麼好,那可不能用打坐時間長短去衡量,也不能用功能去衡量。說這人有功能,天目層次高他就高,崇拜他,不行!我們衡量好壞的唯一標準就是看人的心性高低,以大法為準,以心性高低衡量人修煉的好與壞。將來到一定層次上,看人身體上的顏色也可以看出層次來。為甚麼哪?因為這個顏色是這樣的,赤橙黃綠青藍紫有色無色,九種顏色的變化。等到這個白色,全身白茫茫的、白色的時候,這個人就煉到世間法的最高層次上了。等煉到無色的時候,那就進入透明體過渡狀態中去了,走出世間法。所以在這個層次中赤橙黃綠青藍紫,就可以辨別出來人的修煉層次。剛一上來他身體是赤色,就是紅的。到了羅漢法修煉的時候,還是赤橙黃綠青藍紫從新來,可是那種顏色比你世間法修煉的那個顏色要漂亮的多,是透明的了。走出初果羅漢的時候,進入正果羅漢修煉的時候,還是赤橙黃綠青藍紫,可是這個顏色又是更漂亮,不斷的往上昇華。就是你身體發出的光,功的顏色都是這樣的。

Sư phụ: Họ ngồi thời gian lâu, chỉ có thể nói là luyện được tốt về một phương diện này. Còn nói về tổng thể người ta tu luyện tốt thế nào, thì không thể dùng thời gian đả tọa dài ngắn mà đo lường, cũng không thể dùng công năng mà đo lường. Nói rằng người này có công năng, tầng thứ thiên mục cao thì họ là [tu được] cao, [liền] sùng bái họ, [thế] không được! Tiêu chuẩn duy nhất mà chúng ta đo lường tốt xấu chính là xem tâm tính cao thấp của người ta, lấy Đại Pháp làm chuẩn, lấy tâm tính cao thấp mà đo lường người ta tu luyện được tốt hay xấu. Tương lai đến một tầng thứ nhất định, nhìn màu sắc trên thân thể người ta cũng có thể nhìn ra tầng thứ tu luyện. Vì sao? Bởi vì màu sắc là như thế này, đỏ cam vàng lục lam chàm tím106 hữu sắc vô sắc, biến hóa chín loại màu sắc. Đợi đến lúc màu trắng, toàn thân thể trắng mờ mờ, [lúc] màu trắng, thì người đó đã luyện tới tầng thứ cao nhất của thế gian pháp rồi. Đợi đến khi tu luyện thành vô sắc, vậy sẽ tiến nhập vào trong trạng thái quá độ là thấu minh thể107 rồi, xuất khỏi thế gian Pháp. Cho nên [từ] đỏ cam vàng lục lam chàm tím trong tầng thứ này, đã có thể phân biệt ra tầng thứ tu luyện của người ta. Vừa mới vào thì thân thể của họ là màu đỏ thắm, chính là màu đỏ. Đến khi tu luyện La Hán Pháp, vẫn là bắt đầu lại đỏ cam vàng lục lam chàm tím, nhưng màu sắc đó đẹp hơn nhiều so với màu sắc khi chư vị tu luyện thế gian pháp, [nó] trong suốt. Khi bước ra khỏi La Hán sơ quả108, khi bước vào tu luyện La Hán chính quả, vẫn là đỏ cam vàng lục lam chàm tím, nhưng màu sắc này lại đẹp hơn nữa, không ngừng thăng hoa lên trên. Chính là ánh sáng do thân thể chư vị phát ra, màu sắc của công đều là như vậy.

弟子:機制氣機有甚麼不同?

Đệ tử: Cơ chế và khí cơ có gì khác nhau?

師:機制就是你身體裏下進去的給你長功出功等的因素,能夠改變你身體和修煉出你一切東西,包括產生元嬰這些東西,我們都把它統一叫作機制。而氣機哪,實質上就是在你體外下上那種你手不動他能帶動你手煉功的東西。

Sư phụ: ‘Cơ chế’ chính là những nhân tố như là tăng công xuất công cho chư vị mà được cài vào trong thân thể của chư vị, có thể cải biến thân thể chư vị và tu luyện xuất ra mọi thứ của chư vị, bao gồm sản sinh những thứ như nguyên anh, chúng tôi đều thống nhất gọi nó là cơ chế. Còn ‘khí cơ’, trên thực tế chính là thứ mà được cài bên ngoài thân thể chư vị, thứ mà tay chư vị không động [nhưng] nó lại có thể dẫn động tay của chư vị luyện công.

弟子:有的朝鮮族聽不懂,得法輪有影響嗎?

Đệ tử: Có [người] dân tộc Triều Tiên nghe không hiểu, [đối với việc] đắc Pháp Luân có ảnh hưởng không?

師:我想來到這裏大多數都是有緣份的。我們好多人聽不懂漢語,可是他的病已經去了。因為根基好的照樣能得,這裏邊還有個根基好的問題。

Sư phụ: Tôi nghĩ rằng tới đây đại đa số đều là có duyên phận. Rất nhiều người chúng ta nghe không hiểu tiếng Hán, nhưng bệnh của họ đều đã khỏi rồi, bởi vì căn cơ tốt vẫn có thể đắc như nhau, ở đây còn có vấn đề căn cơ tốt.

結束語

Lời kết

這些天也都是我在講,沒有更多講的了。我們好多學員都想要我贈送他幾句話,我不能每個人都贈送你幾句話。因為大家修不修還得看你自己的,所以我統一贈給大家幾句話。當初我在傳功的時候,遇到很多魔難,是不可想像的。當時我就抱定了這麼一個想法吧。非常高的大覺者們看到我很難忍受的時候他就講:難忍能忍,難行能行。我想把這兩句話贈給大家。我這個功傳到今天為止,暫時先告一段落,我也要休整一下。

Mấy ngày nay đều là tôi giảng, không còn nhiều để giảng hơn nữa. Chúng ta rất nhiều học viên đều muốn tôi tặng họ vài câu, tôi không thể đều tặng cho chư vị vài câu cho từng người một. Bởi vì mọi người tu hay không còn cần xem bản thân chư vị, cho nên tôi thống nhất tặng cho mọi người mấy câu. Thời tôi mới truyền công, gặp rất nhiều ma nạn, là không thể tưởng tượng nổi. Lúc đó tôi chỉ giữ chắc một cách nghĩ như thế này. Những Đại Giác Giả vô cùng cao những lúc nhìn thấy tôi rất khó nhẫn chịu họ bèn nói: Nan nhẫn năng nhẫn, nan hành năng hành109. Tôi muốn tặng cho mọi người hai câu ấy. Công này của tôi truyền tới ngày hôm nay, tạm thời đến lúc kết thúc, tôi cũng cần nghỉ ngơi một chút.

我在傳功過程當中,一貫的保持本著對學員負責,對社會負責這樣一個態度,整個傳功過程當中收到的效果是比較好,比較理想。雖然我們有些少數民族的學員聽不懂漢話,但是也相繼收到了比較理想的效果。因為佛家有句話,我們講緣份,大家坐在這裏就是緣份。既然都有這個緣份,我們就抓住這個機會,不要錯過去。能有這樣一個緣份,我們大家應該珍惜它,既然學到了我也想大家要堅持把他煉下去。這樣一來,最起碼你不想達到多高層次,因為我們講付出多少會得到多少,你最起碼會有一個好的身體,或者是你能提高你的層次,這是保證會達到的。當然我們的目地是想要往高層次上真正帶這種能圓滿的人。我那天講了,別看幾千人在這裏聽法,我說我不太樂觀,不知道有多少人能夠真正的修煉下去,真正能夠達到最理想的這個目標。我是這樣想的,我希望大家都能夠下定決心修煉下去。就像我剛才送給大家兩句話一樣,堅持到最後那才是真金,誰堅持到最後那才是圓滿。

Tôi trong quá trình truyền công, đã bảo trì nhất quán thái độ có trách nhiệm với học viên, có trách nhiệm với xã hội, trong suốt quá trình truyền công hiệu quả thu được khá tốt, khá lý tưởng. Mặc dù chúng ta có một số học viên dân tộc thiểu số không nghe hiểu tiếng Hán, nhưng cũng lần lượt thu được hiệu quả khá lý tưởng. Bởi vì Phật gia có câu rằng, chúng tôi giảng duyên phận, mọi người ngồi tại đây chính là duyên phận. Đã là đều có duyên phận này rồi, chúng ta hãy nắm chắc cơ hội này, đừng để tuột mất. Có thể có được duyên phận thế này, mọi người chúng ta nên trân quý nó; đã học rồi thì tôi cũng nghĩ rằng mọi người cần kiên trì luyện nó tiếp tục. Cứ như vậy, tối thiểu nhất [dù] chư vị không muốn đạt tới tầng thứ thật cao, bởi vì chúng tôi giảng phó xuất bao nhiêu sẽ đắc được bấy nhiêu, tối thiểu là chư vị sẽ có một thân thể khỏe mạnh, hoặc là chư vị có thể đề cao tầng thứ của chư vị, điều này bảo đảm sẽ đạt được. Đương nhiên mục đích của chúng tôi là muốn thật sự dẫn những người có thể viên mãn lên tầng thứ cao. Hôm nọ tôi đã giảng, đừng thấy hằng mấy nghìn người ngồi đây nghe Pháp, tôi nói tôi không quá lạc quan, không biết có bao nhiêu người có thể thật sự tu luyện tiếp tục, có thể thật sự đạt được mục tiêu lý tưởng nhất. Tôi là nghĩ như vậy, tôi hy vọng mọi người đều có thể hạ quyết tâm tu luyện tiếp tục. Tựa như hai câu tôi vừa tặng mọi người: kiên trì đến cuối cùng ấy mới là vàng ròng, ai có thể kiên trì tới cuối cùng thì ấy mới là viên mãn.

修佛的方法本身並不難,難就難在在常人社會中放棄常人這個執著心,這是最難的。但是好在我今天把這個道理,高層次中的法給大家講出來了,可以遵照這個法去修、去煉。過去有許多人想往高層次上修煉,他不得法,苦於沒有法他沒法往上修。今天便利就便利在這裏,這個法給大家送到家門口來了。過去有許多人,各地區都有,想要到甚麼地方去,找個名師,修一修,學一學。我們這個法門可以說是最方便法門,也是修起來最快的,因為他直指人心修煉。這個你也不用到哪兒拜師了,這個東西我們已經給你拿到門口了,看看能不能修。能修那麼你就修,要修不了你也就不用再想修煉的事了,就是這樣一個道理。整個在講課過程當中,涉及的問題比較高,講出的內容也是你們從來沒有聽到的。不但是氣功師,就是宗教中有很多東西都不允許知道這麼高、這麼清。所以我說我做了一件前人從沒有做的事情,開了一扇大門。而有些事情已經講的很清楚了,說再不能修也就是個人問題了。當然我們本著對大家負責任,法給你講透,理給你講透,將來我們還要保護你。

Bản thân phương pháp tu Phật không hề khó, khó chính là khó ở chỗ ngay trong xã hội người thường mà vứt bỏ tâm chấp trước của người thường, đó là khó nhất. Nhưng điều tốt là hôm nay tôi đã giảng ra đạo lý này, Pháp ở cao tầng này cho mọi người rồi, có thể chiểu theo Pháp này mà tu, mà luyện. Quá khứ rất nhiều người muốn tu luyện lên cao tầng, họ không đắc Pháp, khổ vì không có Pháp họ không cách nào tu lên được. Hôm nay thuận tiện chính là thuận tiện ở chỗ này, Pháp này đã đưa tới tận cổng nhà chư vị. Trong quá khứ có rất nhiều người, các địa khu đều có, muốn tới nơi nào đó, đi tìm minh sư, mà học, mà tu. Pháp môn này của chúng tôi có thể nói là pháp môn thuận tiện nhất, cũng là tu được nhanh nhất, bởi vì Nó tu luyện trực chỉ nhân tâm. Thế này chư vị cũng không cần phải đi đâu bái sư nữa, thứ này chúng tôi đã mang tới tận cửa cho chư vị rồi, xem xem có thể tu hay không. Có thể tu thì chư vị tu, nếu không thể tu thì chư vị cũng đừng nghĩ tới chuyện tu luyện nữa, chính là đạo lý như vậy. Trong toàn bộ quá trình giảng bài, những vấn đề đề cập đến khá cao, nội dung được giảng ra cũng là những điều mà trước nay chư vị chưa từng nghe. Không chỉ là khí công sư, ngay cả trong tôn giáo cũng có rất nhiều thứ không được phép biết cao như vậy, rõ như vậy. Cho nên tôi nói rằng tôi đã làm một chuyện tiền nhân chưa hề làm, đã mở ra một cánh cửa lớn. Hơn nữa có một số việc đã giảng rất rõ ràng, nếu vẫn không thể tu thì là vấn đề cá nhân rồi. Đương nhiên chúng tôi là có trách nhiệm với mọi người, Pháp được giảng thấu cho chư vị, Lý được giảng thấu cho chư vị, tương lai chúng tôi còn cần bảo hộ chư vị nữa.

我們煉功的場不像一般的場,整個煉功場上都是被罩子罩起來,別的功法想進來煉,到了我們這個人群中來,學員中間來,他也進不來我們這個罩。因為它像汽球一樣,你進到中間場地,你也進不去的。整個場能量比較大,不用我清理,因為我的法身就直接做了這件事情。你有我的法身管,他必然會做這樣的事情。我們給了大家多少東西哪,我也不想把它詳細的再講了。總的一個目地就是要大家真正能得法修煉,就是這個目地。也希望大家都能夠在今後的修煉過程當中,不斷的向上,不斷的提高自己的功力,都能夠功成圓滿!

Trường luyện công của chúng tôi không giống với trường thông thường, toàn bộ trường luyện công đều được chụp bởi một cái nắp, công pháp khác muốn tiến nhập vào luyện, vào trong nhóm người này của chúng ta, vào giữa các học viên, thì nó cũng không thể tiến vào được cái nắp này của chúng tôi. Bởi vì nó giống như khí cầu, chư vị tiến nhập vào chỗ ở giữa, chư vị cũng không thể vào được. Năng lượng của toàn bộ trường khá lớn, không cần tôi thanh lý, vì Pháp thân của tôi sẽ trực tiếp làm chuyện này. Chư vị có Pháp thân của tôi quản, họ tất nhiên sẽ làm việc này. Chúng tôi đã cấp cho mọi người bao nhiêu thứ, tôi cũng không muốn nói nó chi tiết thêm nữa. Mục đích duy nhất chính là muốn mọi người có thể thật sự đắc Pháp tu luyện, chính là mục đích ấy. Cũng hy vọng mọi người đều có thể trong quá trình tu luyện sau này, không ngừng hướng thượng, không ngừng đề cao công lực của mình, đều có thể công thành viên mãn!


* * * * * * * * *

Giải đáp thắc mắc tại giảng Pháp ở Quảng Châu

廣州講法答疑

Giải đáp thắc mắc tại giảng Pháp ở Quảng Châu

李洪志

Lý Hồng Chí

我講一下法輪大法錄音帶能不能夠轉錄的問題。過去我們辦班是不讓錄的,自從我真正的傳法開始才允許錄的。我在濟南、大連、長春、合肥幾個班上講課的內容把它歸納在一起,現在已經開印了第三本書《轉法輪》,這就是最後指導我們修煉的這本書了。我同意正式發行的錄音帶除外,其他錄的質量效果我看都不一定有他們的好。再有哪,我講的東西口語很多,出來的書是經過我整理的,去掉了很多口語。有些還帶有我東北的方言,理解上容易出問題,所以不要再從錄音中摘寫我的講法材料了。我這本書出來之後就固定下來作為我們修煉的依據。馬上就要出來了,大家可以向總會去聯繫,去訂購。

Tôi giảng một chút vấn đề băng thu âm của Pháp Luân Đại Pháp có được sao ghi ra hay không. Trước kia chúng tôi mở lớp là không cho ghi băng lại, từ khi tôi thực sự bắt đầu truyền Pháp mới cho phép ghi lại. Nội dung tôi giảng tại vài lớp ở Tế Nam, Đại Liên, Trường Xuân, Hợp Phì đều quy nạp lại với nhau, hiện nay đã bắt đầu in cuốn sách thứ ba là cuốn «Chuyển Pháp Luân», đây chính là cuốn sách chỉ đạo cuối cùng cho chúng ta tu luyện. Ngoài băng thu âm mà tôi đồng ý chính thức phát hành ra, thì chất lượng hiệu quả những băng thu âm khác tôi nghĩ rằng không nhất định đã tốt bằng chúng. Hơn nữa, những điều tôi giảng [có] khẩu ngữ rất nhiều, sách được xuất bản đã qua tôi chỉnh lý, đã loại bỏ đi rất nhiều khẩu ngữ. Có đôi chút còn mang tiếng địa phương vùng Đông Bắc của tôi, sẽ dễ xuất hiện vấn đề về lý giải, cho nên không được trích viết ra tài liệu giảng Pháp từ băng thu âm nữa. Sau khi cuốn sách này của tôi xuất bản thì sẽ cố định lại làm nền tảng để chúng ta tu luyện. Rất nhanh sẽ xuất bản ra, mọi người có thể liên hệ với tổng hội, để đặt mua.

弟子:已皈依佛門的人是否可以每天念觀音經和大悲咒?

Đệ tử: Người đã quy y cửa Phật có thể hàng ngày niệm kinh Quán Âm và chú Đại Bi không?

師:你皈依佛門這個話說的很籠統,我們也是佛門,應該說你皈依的是佛教。你說能不能每天念觀音經、大悲咒,你念了觀音經也好,大悲咒也好,你實質上就是按了宗教的修煉方法在修。這還是個不二法門的問題,這還是個修煉能不能專一的問題。當然我不反對你去皈依修煉那個法門,你願意修你儘管去修好了,但是我們這裏就是叫大家要專一修煉。有的人就是放不下那個心,放不下那個心你也就別遭這個罪了,心裏還老嘀咕著,你覺的修哪個好你自己就修哪個。但是我要對你負責任,所以話得說透。我告訴你,現在宗教界不是淨土,和尚都很難自度。真修的人很少,當然真修的人還是有,沒有了那就全完了。修甚麼自己定好了,但是絕不能同修。

Sư phụ: Câu nói quy y cửa Phật này của chư vị chung chung lắm, chúng tôi cũng là Phật môn110; nên là nói [môn] chư vị quy y là Phật giáo. Chư vị nói có thể hàng ngày niệm kinh Quán Âm, chú Đại Bi hay không? Chư vị niệm kinh Quán Âm cũng vậy, chú Đại Bi cũng vậy, về thực chất chư vị chính là đang tu theo phương pháp tu luyện của tôn giáo rồi. Đây lại là vấn đề bất nhị pháp môn, lại là vấn đề tu luyện có thể chuyên nhất không. Đương nhiên tôi không phản đối chư vị quy y tu luyện pháp môn đó, chư vị muốn tu thì chư vị cứ tu thôi; nhưng tại đây chúng tôi chính là bảo mọi người phải tu luyện chuyên nhất. Có người đúng là không thể buông bỏ cái tâm ấy, không thể buông bỏ tâm ấy thì chư vị cũng đừng mắc cái tội đó, trong tâm mãi cứ lẩm nhẩm, chư vị thấy tu môn nào tốt thì tự chư vị cứ tu môn đó. Nhưng tôi phải có trách nhiệm với chư vị, cho nên lời phải nói cho thấu. Tôi nói với chư vị rằng, giới tôn giáo hiện nay không phải là [miền] tịnh thổ, hòa thượng đều rất khó tự độ. Rất ít người chân tu; đương nhiên vẫn có người chân tu, không có thì nó đã kết thúc cả rồi. Tu gì ấy là bản thân quyết định, nhưng tuyệt đối không được tu đồng thời.

弟子:其它氣功書和其他氣功師的書能不能保存?

Đệ tử: Sách khí công khác và sách của khí công sư khác có thể giữ lại không?

師:我們已經講過這個問題了。修哪一門、何去何從這個自己決定。有的氣功師就是真正好的氣功師,他出來普及氣功也好,他自身雖然沒有壞的東西,可是他也惹不起這些東西。所以他的場上是很亂的,他把誰都叫作師傅,所以他們書上的信息,他那些東西也很亂。一般常人社會的課本,技術書等沒問題。但那些下流的,不好的書不用說保存,買都不要買,更不要看,嚴重影響人類的社會道德。那些氣功書只要不是我們這一門的一定不能保存。

Sư phụ: Chúng tôi đã giảng vấn đề này rồi. Tu môn nào, đi đâu về đâu là do tự mình quyết định. Có khí công sư đúng là khí công sư thật sự tốt, [dù] họ bước ra phổ cập khí công cũng vậy, tự thân họ mặc dù không có gì xấu, nhưng họ cũng không xử lý nổi những thứ kia. Cho nên trường của họ rất loạn, ai họ cũng gọi là thầy, cho nên tín tức trong sách của họ, những thứ đó của họ cũng rất loạn. [Còn] sách như sách giáo khoa, sách kỹ thuật trong xã hội người thường thì không vấn đề gì. Nhưng những [sách báo] hạ lưu, sách bất hảo thì đừng nói là giữ, mua cũng không nên mua, càng không nên xem, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức xã hội nhân loại. [Còn] sách khí công kia hễ không phải là sách trong môn này của chúng ta thì nhất định không được giữ lại.

弟子:道家修的副意識、主意識?

Đệ tử: Phó ý thức và chủ ý thức mà Đạo gia tu?

師:都是一樣。但是哪,修主意識的人來的層次極高,或者是他的主意識是極特殊的才能夠這樣做。普遍傳的修法都是副意識修煉。

Sư phụ: Đều như nhau. Nhưng mà, người tu chủ ý thức đến từ tầng thứ cực cao, hoặc là chủ ý thức của họ cực đặc thù thì mới có thể làm như vậy. Pháp tu truyền phổ biến đều là phó ý thức tu luyện.

弟子:今生主意識來生能成為副意識嗎?

Đệ tử: Chủ ý thức đời này có thể thành phó ý thức ở đời sau không?

師:那可是說不定的事,這個沒有限制。

Sư phụ: Đó là chuyện không nói chắc được, điều này không có hạn chế.

弟子:兩手結印在腹部是否要留有間隙,挨著腹部行不行?

Đệ tử: Hai tay kết ấn tại phần bụng có phải cần chừa lại khe hở không, tựa vào bụng có được không?

師:這些在講課中都講過了,昨天講你沒注意聽。結印的時候手要挨著身體的,微微挨著身體。第五套功法神通加持法兩手結印的時候手是可以放在腿上,不然的話,你在打坐的時候兩個胳膊很沉,幾十斤重,會墜的你的脊柱彎下來,會坐不直。結印的時候手放在腿上減輕份量。

Sư phụ: Những điều này đều đã giảng trên lớp rồi, hôm qua giảng chư vị không chú ý nghe. Khi kết ấn tay cần tựa vào thân thể, hơi hơi tựa vào thân thể. Bài công pháp thứ năm Thần Thông Gia Trì pháp khi lưỡng thủ kết ấn thì tay có thể đặt trên chân, nếu không, khi chư vị đả tọa hai cánh tay rất nặng, nặng mấy chục cân111, sẽ trĩu cột sống của chư vị cong xuống, sẽ ngồi không thẳng. Khi kết ấn tay để trên chân thì giảm bớt trọng lượng.

弟子:佛展千手的彌勒伸腰一節只有抻接著就是如來灌頂?

Đệ tử: Động tác Di Lặc duỗi lưng trong bài Phật Triển Thiên Thủ chỉ cần duỗi ra thì tiếp sau chính là [động tác] Như Lai quán đỉnh?

師:對,那兩個動作是連在一起的。彌勒伸腰之後一轉掌就是放鬆,鬆下來就叫如來灌頂。但是可沒有灌頂的意念,說我用氣往裏灌,沒有這個概念,是自動的機制在起作用。

Sư phụ: Đúng, hai động tác đó là nối liền với nhau. Sau khi Di Lặc thân yêu hễ xoay chưởng thì chính là thả lỏng, thả lỏng xuống thì gọi là Như Lai quán đỉnh. Nhưng không có ý niệm quán đỉnh, chẳng hạn ‘tôi dùng khí quán vào trong’, không có khái niệm này, là cơ chế tự động đang khởi tác dụng.

弟子:元始天尊、釋迦牟尼佛修的是主意識還是副意識?

Đệ tử: Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thích Ca Mâu Ni là tu chủ ý thức hay phó ý thức?

師:我不能指任何人、不能指任何名字說這件事情。告訴大家過去所流傳的東西,絕大部份,百分之九十五以上的功法都是副意識修煉,功法本身就是那樣要求的。這是個天機,過去是絕不能講的。

Sư phụ: Tôi không thể chỉ bất kỳ ai, không thể chỉ bất kỳ cái tên nào [khi] nói chuyện này. [Tôi] nói với mọi người những gì được lưu truyền trong quá khứ, tuyệt đại bộ phận, trên 95% công pháp đều là phó ý thức tu luyện, bản thân công pháp chính là yêu cầu như vậy. Đây là Thiên cơ, quá khứ là tuyệt đối không thể giảng.

弟子:甚麼是旋機?

Đệ tử: ‘Toàn cơ’ là gì?

師:我講這個旋機和過去在中國古代修道書中寫的玄機,就是玄妙的玄,是不一樣的。我們這個旋機是旋轉的旋,機能的機,機制的機也是機器的機。旋機,旋轉的機制,是這個意思。從天體到星球、從星球到微觀物質,一切都在運動著這種機制我們叫旋機。

Sư phụ: ‘Toàn cơ’ mà tôi giảng và ‘huyền cơ’ viết trong sách tu Đạo thời Trung Quốc cổ đại trước kia, tức là ‘huyền’ trong ‘huyền diệu’, là khác nhau. ‘Toàn cơ’ này của chúng tôi là ‘toàn’ trong ‘toàn chuyển’, ‘cơ’ trong ‘cơ năng’, ‘cơ’ trong ‘cơ chế’ cũng là ‘cơ’ trong ‘cơ khí’. ‘Toàn cơ’, cơ chế xoay chuyển, là ý này. Từ Thiên thể112 tới tinh cầu, từ tinh cầu tới vật chất vi quan, hết thảy đều đang vận động [theo] cơ chế ấy mà chúng tôi gọi là ‘toàn cơ’.

弟子:氣功雜誌封面上有老師的像,也有法身存在嗎?

Đệ tử: Trên trang bìa tạp chí khí công có ảnh của Thầy, cũng có Pháp thân tồn tại phải không?

師:我的照片上都有,凡有我的照片或者是我寫的文章,或者是印刷的書中都有,印刷出來的也是一樣的。這個不玄。

Sư phụ: Trên ảnh của tôi đều có, phàm là có ảnh của tôi hoặc là văn chương mà tôi viết, hoặc là trong sách in thì đều có, in ra cũng như vậy. Điều này không huyền hoặc.

弟子:我的頭頂經常有一個東西在旋轉著?

Đệ tử: Trên đỉnh đầu của con thường có một thứ đang xoay chuyển?

師:我想這類條子大家不要給我再遞了,你身體這個反應、那個反應,如果你是個煉功人都是好事。你也知道是旋轉著的,法輪在轉,非要我再給你講出來,各種感覺你就不要提了,成千上萬的感覺太多了。你都來問我,你自己就不悟了,其實都是好事,不然以後你問誰?

Sư phụ: Tôi nghĩ những tờ câu hỏi kiểu này mọi người đừng đưa lên cho tôi nữa, phản ứng này, phản ứng kia nơi thân thể chư vị, nếu chư vị là người luyện công thì đều là hảo sự113. Chư vị cũng biết là đang xoay chuyển, Pháp Luân đang [xoay] chuyển, cứ nhất định để tôi phải giảng ra cho chư vị, các loại cảm giác chư vị đừng đưa ra nữa, hàng nghìn hàng vạn cảm giác quá nhiều rồi. Chư vị đều tới hỏi tôi, bản thân chư vị lại không ngộ, kỳ thực đều là hảo sự, nếu không sau này chư vị hỏi ai?

弟子:學《法輪功(修訂本)》抄寫了一些放在家中用紙較多,放在家中怕別人亂拿怎麼辦?

Đệ tử: [Khi] học cuốn «Pháp Luân Công (bản hiệu chỉnh)» chép một số phần ra khá nhiều giấy để trong nhà, để trong nhà sợ người khác lấy lung tung thì làm thế nào?

師:這不要緊的,我看把他封存起來,或者把他統一交到輔導站保管起來。將來送給貧困地區的農民。

Sư phụ: Điều này không phải lo, tôi thấy gói ghém cất Nó đi, hoặc là thống nhất giao Nó lại cho trạm phụ đạo bảo quản. Tương lai sẽ tặng lại cho nông dân khu vực nghèo khó.

弟子:請解釋佛教、佛法、佛學之間的區別?

Đệ tử: Xin hãy giải thích sự khác biệt giữa Phật giáo, Phật Pháp và Phật học?

師:佛教中的法只是佛法中的一小小部份,它代表不了整個佛法。釋迦牟尼講修煉方法有八萬四千法門,而在佛教中只有十幾法門。甚麼天台宗啊、華嚴宗啊、淨土宗啊、禪宗、密宗的,只有十幾法門。八萬四千法門我說還不止,這麼大的佛法。現在宗教怎麼能概括整個佛法哪?它只是佛法中的一部份。它只是佛法中的一小部份,形成了宗教所以叫佛教。佛學那是常人的名詞與認識。

Sư phụ: Pháp trong Phật giáo chỉ là một phần nhỏ bé trong Phật Pháp, nó không thể đại biểu cho toàn bộ Phật Pháp. Thích Ca Mâu Ni giảng phương pháp tu luyện có tám vạn bốn nghìn pháp môn, mà trong Phật giáo chỉ có mười mấy pháp môn. Nào là Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Tịnh Độ tông, Thiền tông, Mật tông, chỉ có mười mấy pháp môn. Tám vạn bốn nghìn pháp môn tôi nói cũng không chỉ có vậy, Phật Pháp to lớn nhường này. Tôn giáo hiện nay làm sao có thể khái quát toàn bộ Phật Pháp được? Nó chỉ là một bộ phận trong Phật Pháp. Nó chỉ là một bộ phận nhỏ trong Phật Pháp, hình thành tôn giáo nên gọi là Phật giáo. ‘Phật học’ là danh từ và nhận thức của người thường.

弟子:為甚麼煉靜功入不了靜?

Đệ tử: Vì sao luyện tĩnh công không nhập tĩnh được?

師:煉靜功入不了靜,是因為我們在常人社會中有許多執著不放的東西在干擾。隨著對大法認識的提高,執著的東西會越來越淡化,煉靜功時就會慢慢的靜下來,現在你要都能放下了,層次早就上去了,也修煉的相當高了。現在有一些雜念不要緊的,隨著你在複雜的常人社會中逐漸的提高心性,放棄常人執著的東西,慢慢就會變的清淨。心性也在慢慢放棄執著心中得到提高,層次也在得到提高,它是相輔相成的。那個時候你就會完全入靜了。

Sư phụ: Luyện tĩnh công không nhập tĩnh được, là vì chúng ta trong xã hội người thường có rất nhiều thứ chấp trước không buông đang can nhiễu. Cùng với nhận thức Đại Pháp nâng cao lên, những thứ chấp trước sẽ càng ngày càng nhạt đi, khi luyện tĩnh công sẽ dần dần tĩnh lại được; hiện nay nếu chư vị có thể buông bỏ hết, thì tầng thứ sớm đã nâng lên rồi, cũng đã tu luyện được tương đối cao rồi. Hiện nay có một vài tạp niệm thì cũng đừng lo, cùng với việc chư vị dần dần đề cao tâm tính trong xã hội người thường phức tạp, vứt bỏ những thứ chấp trước của người thường, dần dần sẽ trở nên thanh tịnh. Khi vứt bỏ tâm chấp trước tâm thì tính cũng dần dần được đề cao, tầng thứ cũng được đề cao, chúng là tương phụ tương thành114. Lúc đó chư vị sẽ hoàn toàn nhập tĩnh.

弟子:甚麼是神通?

Đệ tử: Thần thông là gì?

師:神通,這是佛家把人體超常的功能叫作神通。最低層次上常人叫作特異功能。

Sư phụ: Thần thông, đó là Phật gia gọi công năng siêu thường của thân thể người là ‘thần thông’. Ở tầng thấp nhất người thường gọi là ‘công năng đặc dị’.

弟子:甚麼是加持?

Đệ tử: Gia trì là gì?

師:加持可不是長功。給你擱上一塊功叫你高一點,再給你擱上一塊功再讓你高一點,可沒有這種事情。功,全憑自己這顆心去修,誰給你擱上都不行。你不信,現在我就可以拿出一個功柱來給你接上,一下子讓你達到出世間法的這個成度上。可是你一走出這個門就得掉下來,因為那功不是你的,你的心性標準沒在那裏,所以它擱不上。因為在一個很特殊的空間當中,還同時存在著一個心性標準的尺度,它是有刻度的。心性達到不了這麼高,那個功柱就達不到那麼高。過去不是有人說功發出去了,這個能量消耗了很可惜。不能這樣理解,因為你發出去的時候,你的心性標準在這裏,發出一定能量功柱短了,可是,你煉功中不用吃苦就回補上去了。因為你的心性、你的標準、你的果位在這裏。當然你要再往上長,你就得繼續提高你的心性才能長功,否則的話甚麼也沒有用。加持只是高度淨化身體,和幫助演化其它功中的東西。

Sư phụ: Gia trì không phải là tăng trưởng công. Đặt lên cho chư vị một khối công để chư vị cao hơn một chút, lại cấp cho chư vị một khối công nữa để chư vị cao hơn chút nữa, không có chuyện ấy. Công, hoàn toàn dựa vào cái tâm này của mình mà tu, ai đặt lên cho chư vị cũng không được. Chư vị không tin, bây giờ tôi có thể lấy ra một cột công trụ nối lên cho chư vị, lập tức để chư vị đạt đến trình độ xuất thế gian Pháp. Nhưng chư vị hễ bước ra khỏi cửa này thì sẽ phải rớt xuống, bởi vì công đó không phải là của chư vị, tiêu chuẩn tâm tính của chư vị chưa ở đó, cho nên nó không đặt lên được. Vì trong một không gian rất đặc thù, còn đồng thời tồn tại cái thước115 đo tiêu chuẩn tâm tính, nó là có khắc vạch. Tâm tính không đạt được cao như vậy, thì cột công trụ kia sẽ không thể đạt được cao như vậy. Trước kia chẳng phải có người nói công đã phát xuất ra, năng lượng này tiêu hao đi thật đáng tiếc. Không thể lý giải như vậy được, bởi vì khi chư vị phát xuất ra, tiêu chuẩn tâm tính của chư vị ở đây, phát xuất ra một năng lượng nhất định thì cột công trụ sẽ ngắn lại, nhưng mà, trong khi chư vị luyện công không cần chịu khổ cũng sẽ được bổ sung trở lại. Bởi vì tâm tính của chư vị, tiêu chuẩn của chư vị, quả vị của chư vị ở đó. Đương nhiên nếu chư vị muốn tăng trưởng lên nữa, thì chư vị phải tiếp tục đề cao tâm tính của chư vị thì mới có thể tăng công, nếu không thì cái gì không có tác dụng [tăng công]. Gia trì chỉ là tịnh hóa thân thể một cách cao độ, và trợ giúp diễn hóa những thứ khác trong công.

弟子:我命裏有錢,這個和長功有甚麼關係?

Đệ tử: Trong mệnh của con giàu có, điều này có quan hệ gì với việc tăng trưởng công không?

師:有幾種情況,有些人是自己用自己的德換來的,求來的福份;有的人是過去積下來的;還有高層次上帶來的。有不同的情況,所以它也比較複雜,不能夠千篇一律的看這些問題。因為有些人他就是有德,德大,他就要甚麼有甚麼,因為這個東西很關鍵。確實是這種情況。這個德可以轉化成功,決定一個人修煉層次的高低和果位大小的一個方面。如果在常人社會中就求福報,那麼這個東西可以和別人交換,交換錢財物。有的人幹點事就來很多錢,因為他德很大;有的人做甚麼事也沒有錢,可能是德小,這不絕對的。當然有些人很複雜的,我就說一般的規律。德小的人甚至於要飯都要不來,因為別人給你飯的時候,你也得給他德去交換,你沒有德給他,所以那個飯你都要不來。要交換的是均衡宇宙不失不得的這種特性在起作用。

Sư phụ: Có mấy loại tình huống, có những người là dùng đức của mình mà đổi lấy, cầu lấy phúc phận; có người là do quá khứ đã tích lại được; còn có người mang tới từ cao tầng. Có tình huống khác nhau, nên nó cũng khá phức tạp, không thể xem xét những vấn đề này nhất loạt như nhau được. Do một số người họ là có đức, đức lớn, nên họ muốn gì có nấy, vì thứ này rất then chốt. Xác thực là tình huống như vậy. Đức này có thể chuyển hóa thành công, [là] một phương diện quyết định tầng thứ cao thấp và quả vị lớn nhỏ của một người tu luyện. Nếu cầu phúc báo trong xã hội người thường, vậy thì thứ này có thể trao đổi với người khác, trao đổi lấy tiền tài vật chất. Có người làm một chút việc đã có rất nhiều tiền, bởi vì đức của họ rất lớn; có người làm việc gì cũng không có tiền, có thể là đức nhỏ; điều này không tuyệt đối. Đương nhiên có một số người rất phức tạp, tôi chỉ nói về quy luật thông thường. Người đức nhỏ thậm chí xin ăn cũng không xin được, bởi vì khi người khác cho chư vị cơm, chư vị cũng phải cấp đức cho họ để trao đổi, chư vị không có đức để cho họ, cho nên chỗ cơm đó chư vị cũng không xin được. Phải trao đổi là vì chủng đặc tính cân bằng vũ trụ ‘bất thất bất đắc’116 này đang khởi tác dụng.

弟子:佛像舊了如何處理?

Đệ tử: Tượng Phật đã cũ thì xử lý như thế nào?

師:佛教中有個規定吧,這些不願意要了就送到廟裏去。

Sư phụ: Trong Phật giáo có quy định rồi, nếu không muốn [tượng] đó nữa thì tiễn vào chùa.

弟子:為甚麼聽課時胡思亂想?

Đệ tử: Vì sao khi nghe giảng lại suy nghĩ lung tung?

師:你集中精力聽就好了。主意識要強,其實是思想業力在干擾。

Sư phụ: Chư vị tập trung tinh lực mà nghe sẽ tốt thôi. Chủ ý thức phải mạnh, kỳ thực là nghiệp lực tư tưởng đang can nhiễu.

弟子:還能不能治病?

Đệ tử: Còn có thể trị bệnh hay không?

師:如果你是個醫院的大夫,是個按摩大夫,我說問題還不大。如果你自己就想幹這個,或者做這項工作,或者是自己開業,這都是常人中的事情。你如果用功去治病那是絕對的不行!我這裏傳的不是甚麼祛病健身的東西,是真正修煉。而真正修煉又是一個非常嚴肅的問題,你想修成那樣的覺者,你不嚴格的要求自己,水水湯湯的怎麼能行呢?非常嚴肅的。真正的要吃很多苦的,你得橫下心按照大法去修的。真正想修煉我說這些問題你都不用想了。

Sư phụ: Nếu chư vị là bác sỹ ở bệnh viện, là bác sỹ xoa bóp, tôi nói rằng vấn đề cũng không lớn. Nếu bản thân chư vị là muốn làm việc này, hoặc là làm loại công tác này, hoặc là bản thân mở nghề, thì đều là việc trong người thường. Nếu chư vị dùng công để trị bệnh thì tuyệt đối không được! Tôi truyền tại đây không phải những gì chữa bệnh khỏe người nào đó, [mà] là tu luyện chân chính. Hơn nữa tu luyện chân chính lại là một vấn đề nghiêm túc phi thường, chư vị muốn tu thành Giác Giả như thế, [mà] chư vị không nghiêm khắc yêu cầu bản thân, cứ ào ào như vậy thì sao được đây? Nghiêm túc phi thường. Thật sự phải chịu rất nhiều khổ, chư vị phải hạ quyết tâm chiểu theo Đại Pháp mà tu. Thật sự muốn tu luyện thì tôi nói rằng những vấn đề này chư vị cũng khỏi cần nghĩ nữa.

弟子:主意識是不是人的靈魂?

Đệ tử: Chủ ý thức có phải là linh hồn của con người?

師:靈魂這個東西說的很籠統。而人身體是很複雜的,它指的是甚麼也很不明確。所以我們這裏根本就排除過去的那種說法,完全是在結合現在人體科學講的,我們這裏講的很清楚了。

Sư phụ: ‘Linh hồn’ này nói ra rất chung chung. Mà thân thể con người rất phức tạp, nó nói về cái gì thì cũng rất không minh xác. Cho nên tại đây chúng ta hoàn toàn bài trừ cách nói của quá khứ đó, hoàn toàn là kết hợp với khoa học thân thể người hiện nay mà giảng; điều chúng ta giảng đây đã rất rõ ràng rồi.

弟子:有時會走神?

Đệ tử: Đôi khi bị thất thần?

師:你現在達不到絕對入靜是正常的,那是個層次提高的體現。你要真能靜的下來了,你的層次也不低了。

Sư phụ: Hiện nay chư vị không thể đạt được nhập tĩnh tuyệt đối thì là bình thường, đó là thể hiện của đề cao tầng thứ. Nếu chư vị mà thật sự có thể nhập tĩnh được, thì tầng thứ của chư vị cũng đã không thấp rồi.

弟子:從前學過別的功,其中有些東西比如咒語等有時在大腦中無意中閃現?

Đệ tử: Trước kia từng học công khác, một số thứ trong đó như chú ngữ thỉnh thoảng lóe lên trong đầu một cách vô ý?

師:都得把它排除掉。這和思想一般的業不一樣,一定要排除它。

Sư phụ: Đều phải bài trừ chúng đi. Thứ này không giống với nghiệp tư tưởng bình thường, nhất định phải bài trừ chúng.

弟子:為甚麼去掉壞思想時很難,甚至有時覺的它反而在加強?

Đệ tử: Vì sao khi trừ bỏ tư tưởng xấu rất khó, thậm chí đôi khi cảm thấy chúng ngược lại còn đang mạnh lên?

師:你要消它它就不叫你修,所以會有反應。有的人反應的很強,但你的主思想一定要清楚,排除它。等你能分辨了,思想又堅定,我的法身就給你消掉它。

Sư phụ: Chư vị muốn tiêu trừ chúng thì chúng không để chư vị tu, cho nên sẽ có phản ứng. Có người phản ứng rất mạnh, nhưng chủ tư tưởng của chư vị nhất định phải rõ ràng, hãy bài trừ chúng. Đợi tới khi chư vị có thể phân biệt được, tư tưởng lại kiên định rồi, thì Pháp thân của tôi sẽ giúp chư vị tiêu trừ chúng.

弟子:我是煉法輪大法的,我妹妹是供仙的?

Đệ tử: Con là luyện Pháp Luân Đại Pháp, em gái con cúng [thờ] tiên?

師:法輪大法學員甚麼也用不著怕,就是作為一個常人,時時都會碰到不好的東西,它傷不了你,也碰不了你,但是你自己思想要穩定,排斥這些東西。你堅定修大法,我的法身就會處理它。

Sư phụ: Học viên Pháp Luân Đại Pháp không cần phải sợ gì cả, ngay cả là một người thường, cũng thường gặp những thứ bất hảo, chúng không thể làm hại chư vị, cũng không động tới chư vị được, nhưng tư tưởng bản thân chư vị phải ổn định, bài xích những thứ này. Chư vị kiên định tu Đại Pháp, thì Pháp thân của tôi sẽ xử lý chúng.

弟子:天目以前開過,後來又看不見了?

Đệ tử: Trước kia thiên mục đã khai mở, sau này lại không nhìn thấy?

師:以前開過,後來關上了有多種原因,有的可能是被關住的;有的可能是已經傷掉了。但是修煉時都在修補。需要打開的時候就打開了,這個都不用管了,順其自然吧。

Sư phụ: Trước kia khai mở, sau này đóng lại là có nhiều loại nguyên nhân, có [trường hợp] có thể là bị đóng lại; có trường hợp có thể là đã bị tổn thương. Nhưng khi tu luyện đều đang được tu bổ117. Khi cần đả khai thì sẽ đả khai, điều này không cần quản, cứ thuận theo tự nhiên.

弟子:神通加持法堅持不了很長時間怎麼辦?

Đệ tử: ‘Thần Thông Gia Trì pháp’ không thể kiên trì thời gian thật lâu thì làm thế nào?

師:要求是煉越長越好。因為第五套功法是我自己獨修的東西,一點沒有改動就給大家拿出來了,主要的目地要讓你在高層次上修煉的時候,有法可修,有功可煉的。現在你煉起來難度是大,你坐不了那麼長時間。你均衡一下這個時間,加持神通用多長時間,定下來用多長時間,自己酌情吧。而且慢慢你會提高的,久了就能坐很長時間的。

Sư phụ: Yêu cầu là luyện càng lâu càng tốt. Vì bài công pháp thứ năm là điều bản thân tôi độc tu, không thay đổi chút gì mà lấy ra cấp cho mọi người, mục đích chủ yếu là để khi chư vị tu luyện trên tầng thứ cao, có Pháp để tu, có công để luyện. Hiện nay chư vị bắt đầu luyện thì độ khó là lớn, chư vị không thể ngồi thời gian lâu như vậy. Chư vị hãy cân bằng một chút thời gian xem, gia trì thần thông dùng thời gian bao lâu, [phần nhập tĩnh] định lại dùng thời gian bao lâu, tự mình hãy cân nhắc. Hơn nữa dần dần chư vị sẽ đề cao, lâu rồi sẽ có thể ngồi được thời gian rất lâu.

弟子:很遺憾我要出國不能參加最後一天班了?

Đệ tử: Rất tiếc là con phải xuất ngoại không thể tham gia buổi học cuối cùng?

師:以後那就多看一看書沒問題,自學的都可以圓滿,就看實修不實修。

Sư phụ: Sau này hãy đọc sách nhiều một chút thì không vấn đề gì, tự học cũng đều có thể viên mãn, chỉ xét có thực tu hay không.

弟子:誰能生一個人的主元神?

Đệ tử: Ai có thể sinh ra chủ nguyên thần của một người?

師:你管這些幹甚麼呀?你的心用在求知識上還是用在修煉上?我其實都講了,這個龐大的宇宙中的各種物質,在它的運動作用下就可以產生生命。在人體上分主元神、副元神,那不都是生命嗎?

Sư phụ: Chư vị quản những thứ này làm gì? Tâm chư vị dùng vào cầu tri thức hay là dùng vào tu luyện? Kỳ thực tôi giảng cả rồi, các chủng vật chất trong vũ trụ to lớn này, dưới tác dụng vận động của chúng thì có thể sản sinh ra sinh mệnh. Trên thân thể người thì phân ra chủ nguyên thần, phó nguyên thần, đó chẳng phải đều là sinh mệnh sao?

弟子:在您講課時,突然看到您顯像出一位髮髻高挽在頭頂、身體很長的、白髮道長?

Đệ tử: Khi Ngài giảng bài, [con] đột nhiên nhìn thấy Ngài hiển tướng một vị đạo trưởng búi tóc vấn cao trên đỉnh đầu, thân thể rất cao, tóc trắng?

師:我下來準備做這件事很長時間了,佛道神我都當過。看到就看到了。

Sư phụ: Tôi xuống đây chuẩn bị thực hiện việc này thời gian rất lâu rồi, Phật Đạo Thần tôi đều từng làm. Nhìn thấy thì nhìn thấy thôi.

弟子:在家煉功祖先害怕嗎?

Đệ tử: Luyện công trong nhà tổ tiên có sợ không?

師:你執著的可真多。你在世的父母、子女的生命你都左右不了,還管不在世的。正法修行對誰都有好處。我這個法門是最方便法門,在常人中修煉。我一再講修煉是個很嚴肅的問題,你又顧及這個、顧及那個,這個情你也不斷,那個情也不斷。過去甚麼叫出家呀?現在的和尚那很難說了。過去那和尚出了家之後父母都不認的,完全斷絕世緣,連名字都從新起的。為甚麼他要起法名?就是斷絕世上的一切慾望,沒有任何對他的牽掛、糾葛,他才能靜下心來修的。修煉就是個嚴肅的事情。你不要管這些,你只管去修煉好了。但是,不要在家裏供祖先,對你對死人都好,人鬼不能同住一室,世緣已了。

Sư phụ: Chư vị chấp trước thật là nhiều. Sinh mệnh của cha mẹ, con cái chư vị còn sống chư vị cũng không chi phối được, còn quản cả người đã khuất. Tu hành chính Pháp đối với ai cũng có chỗ tốt. Pháp môn này của tôi là pháp môn tiện lợi nhất, tu luyện trong người thường. Tôi cứ giảng đi giảng lại rằng tu luyện là vấn đề rất nghiêm túc, chư vị lại để tâm cái này, để tâm cái kia, cái tình này chư vị cũng không dứt, cái tình kia cũng không dứt. Trong quá khứ thế nào gọi là xuất gia? Hòa thượng hiện nay khó nói lắm. Quá khứ hòa thượng sau khi xuất gia cả cha mẹ cũng không nhận, hoàn toàn đoạn tuyệt thế duyên118, ngay cả tên cũng đặt lại. Vì sao họ phải đặt pháp danh? Chính là đoạn tuyệt hết thảy mọi dục vọng ở thế gian, không còn bất kỳ vương vấn, dính dáng gì với những người kia, họ mới có thể tĩnh tâm xuống mà tu. Tu luyện là một việc nghiêm túc. Chư vị đừng quản những việc kia, chư vị chỉ quản tu luyện là được rồi. Nhưng mà, không được thờ cúng tổ tiên ngay trong phòng, [như thế] mới tốt với cả chư vị và người đã chết, người và quỷ119 không thể ở chung phòng, duyên thế gian đã hết.

弟子:法輪大法對炒股票有沒有影響?

Đệ tử: [Tu luyện] Pháp Luân Đại Pháp có ảnh hưởng đến chơi cổ phiếu không?

師:(學員都樂你了)。你在執著於賭,我告訴你賭輸了還有跳樓的哪!炒股票時的心那是甚麼心,好壞事我說現在有些人就很難分的清了。有人還有問我能不能打麻將,你不是要賭別人的錢嗎?那不是賭嗎?反正我跟大家講就是這句話,我們這裏的課不是給常人隨隨便便聽的,我們是對真正修煉人負責的,給煉功人講的。你要說你在社會上甚麼事都做,你願意幹甚麼就幹甚麼去,也用不著修煉。

Sư phụ: (Học viên đều đang cười chư vị). Chư vị đang chấp trước vào đánh bạc, tôi nói với chư vị thua bạc cũng có người nhảy lầu đó! Cái tâm khi chơi cổ phiếu là cái tâm gì, việc tốt hay xấu tôi nói rằng hiện nay có những người đã rất khó phân được rõ. Có người còn hỏi tôi có thể đánh mạt chược không, chư vị chẳng phải muốn ăn tiền của người khác sao? Đó chẳng phải là đánh bạc sao? Dù sao đi nữa tôi giảng cho chư vị chính là câu nói này: khóa giảng của chúng tôi tại đây không phải là giảng một cách tùy tùy tiện tiện cho người thường, chúng tôi có trách nhiệm với người tu luyện chân chính, [đây] là giảng cho người luyện công. Nếu chư vị nói việc gì trong xã hội chư vị cũng [muốn] làm, chư vị muốn làm gì thì cứ làm nấy, cũng khỏi cần tu luyện.

弟子:我有個七歲兒子近來總說在夢中與您在一起煉功,白天看到您自己煉功,但他又不願意學法輪大法?

Đệ tử: Con có con trai bảy tuổi gần đây thường kể rằng trong mộng luyện công cùng với Ngài, ban ngày nhìn thấy bản thân Ngài luyện công, nhưng nó lại không muốn học Pháp Luân Đại Pháp?

師:那就要看看他學的是甚麼呀?看看他看到的是真的是假的。正法洪傳,魔是想盡辦法破壞的。本人不煉就有問題。

Sư phụ: Vậy thì phải xem xem điều nó học là gì? Xem xem điều nó nhìn thấy là thật hay là giả. Chính Pháp hồng truyền, ma sẽ nghĩ hết mọi cách để phá hoại. Bản thân người đó không luyện thì là có vấn đề.

弟子:在快的時空中人的一生已經完結,為甚麼現在我們還能通過修煉改變人的命運?

Đệ tử: Trong thời không nhanh một đời người ta đã kết thúc, vì sao hiện nay chúng ta vẫn có thể thông qua tu luyện mà cải biến vận mệnh của người ta?

師:因為你的主體沒有完結,我們也可以倒轉那些空間的時間,這是我講課中要講的。順便我在這裏給大家說一個問題,人的生命是自己根本就改變不了的。任何常人都不可能給你改變的,覺者也不能夠無條件的給你改變的,所以人是左右不了自己生命的,你更左右不了別人的生命。有的人想發了財了、掙了大錢了,給家都安頓好了,讓他們過好日子,自己再去修煉去。簡直笑話!人各有命,別看是親人,怎麼可能叫你改變別人的人生呢?再說甚麼難都沒有了,你修甚麼?你知道他們有多大的業力呀?他們一生中應該怎麼走啊?是你能夠左右的了別人的嗎?左右不了。可能有的人想我不相信,我掙了很多錢,我發大財了,我後輩就繼承了唄。我看不一定,說不定天災人禍一把火沒了,輸了,丟了,說不定甚麼,看他有沒有這個福份,沒有這個福份甚麼都繼承不了,就是說這個意思。人各有命,不是誰就能改變誰的命運,這不行。

Sư phụ: Bởi vì chủ thể của chư vị vẫn chưa kết thúc, chúng ta cũng có thể xoay ngược thời gian của những không gian đó, đây là điều tôi muốn giảng trong khóa giảng. Tiện đây tôi cũng nói một vấn đề cho mọi người, sinh mệnh của con người thì tự mình hoàn toàn cải biến không nổi. Bất cứ người thường nào cũng không thể thay đổi cho chư vị được, Giác Giả cũng không thể cải biến cho chư vị một cách vô điều kiện, cho nên con người không chi phối được sinh mệnh120 của mình, chư vị càng không chi phối nổi sinh mệnh người khác. Có người muốn phát tài, kiếm nhiều tiền, cho gia đình ổn thỏa, để họ sống được tốt, rồi mình mới đi tu luyện. Quả thực là chuyện cười! Người nào có mệnh người đó, dẫu là thân nhân, làm sao có thể để chư vị cải biến cuộc đời người khác đây? Hơn nữa nạn gì cũng không có, thì chư vị tu cái gì? Chư vị có biết họ có nghiệp lực lớn ngần nào không? Trong cả đời họ thì sẽ phải bước đi như thế nào? Chư vị có thể chi phối được người khác chăng? Không chi phối được. Có thể có người nghĩ rằng tôi không tin, tôi đã kiếm được rất nhiều tiền, tôi đã phát tài lớn, thế hệ sau của tôi sẽ kế thừa thôi. Tôi thấy không nhất định, chưa biết chừng thiên tai nhân họa một ngọn lửa là không còn gì cả, thua mất, rơi mất, không thể nói chắc chắn điều gì, phải xem họ có phúc phận này hay không, không có phúc phận ấy thì cũng không kế thừa được gì cả, chính là ý này. Mỗi người mỗi mệnh, không phải người này có thể cải biến vận mệnh của người kia, thế không được.

那麼修煉人的一生就能改變了嗎?是。兩種途徑可以改變,人走上一條修煉的路,可以改變他的一生。一個人要修煉這就是佛性出來了,可以無條件的幫他。其它就不能夠隨隨便便,因為在你的生命當中沒有修煉,就必須得給你改變,那些全部都得打亂,就是從新安排,這是可以做的到的。還有一種情況,就是我們有的人太執著於常人的東西了,通過不正當的手段,或者採取甚麼辦法傷害了別人,或者你感覺到是沒有傷害別人,經過你自己努力等等做些甚麼事情,好像你得到了。其實哪,你能改變的很小,也許你經過努力做那個事情,就是應該努力的,你那樣做你才能得到的,那也是安排好的。但是哪,確確實實在小的方面有能夠改變的,大的方向是改變不了的。改變一點可能就造業了,要不然就不存在著好壞人。在你命運當中沒安排這個東西,你非得要,用不正當的手段得到,那麼你得的就是別人的。那麼你就傷害了別人,就欠了別人的,你就造了業了,就是這個意思。今生不還下生還。

Vậy thì cuộc đời của người tu luyện có thể cải biến được không? Được. Có hai cách có thể thay đổi được, con người bước trên con đường tu luyện, có thể cải biến cuộc đời của họ. Một người muốn tu luyện thì đó chính là Phật tính đã xuất lai, có thể giúp họ một cách vô điều kiện. Những [trường hợp] khác thì không thể làm tùy tùy tiện tiện, vì trong sinh mệnh của chư vị không có tu luyện, nên ắt phải cải biến cho chư vị, toàn bộ thứ đó đều phải xáo trộn lại, nghĩa là an bài lại mới, điều này là có thể làm được. Còn một tình huống nữa, chính là chúng ta có người quá chấp trước vào những thứ của người thường, bằng những thủ đoạn không chính đáng, hoặc dùng cách nào đó làm tổn hại người khác, hoặc chư vị cảm thấy là không làm hại người khác, thông qua nỗ lực của bản thân chư vị v.v. mà làm những sự việc gì đó, dường như là chư vị đắc được rồi. Kỳ thực, chư vị có thể cải biến được rất ít, cũng có lẽ chư vị thông qua nỗ lực làm sự việc đó, chính là cần phải nỗ lực, chư vị làm như thế chư vị mới có thể đắc được, đó cũng là đã an bài cả rồi. Nhưng mà, xác thực là về phương diện nhỏ thì có thể cải biến, còn phương hướng lớn thì không cải biến nổi. Cải biến một chút là có thể sẽ tạo nghiệp, nếu không thì không tồn tại người tốt xấu. Trong vận mệnh của chư vị không có an bài thứ đó, chư vị khăng khăng muốn [nó], dùng thủ đoạn không chính đáng để đạt được, vậy thì thứ chư vị đạt được chính là thứ của người khác. Như vậy chư vị đã làm tổn hại người khác, chính là nợ người khác, chư vị là đã tạo nghiệp rồi, chính là cái ý này. Đời này không trả thì đời sau trả.

弟子:因為我心性差和別人的功摻著練,幾天後使法輪損失了怎麼辦?

Đệ tử: Vì con tâm tính kém [đã] luyện lẫn với công của người khác, mấy ngày sau khiến Pháp Luân bị tổn thất thì làm thế nào?

師:修煉就是個嚴肅的事,有的人他就不聽勸阻,他非要摻著練,結果就完了。這個法輪和我們整個這套機制,這些東西是經過相當久遠年代,相當久遠的歷史時期,多少代人形成的!那可不是我們常人形成的東西,相當珍貴的,修煉出無數的大覺者。你說毀就把他毀了,摻著別的功練就把他毀了。我告訴你,咱們說一句高一點的,那個法輪從某種意義上看,他就是個宇宙,他比你自身的生命,比你的元神要珍貴的不知多少倍。你隨便就把他毀了,大家想一想。當然我既然度你,就拿出這個東西,能學就學不學也沒辦法。凡是法輪再變形的,我不會隨便再給他法輪。他真的想學,一心想學,還得看他是不是真的要想學,能不能堅持下去。真的能學,如果能學可以給一套機制,他自己慢慢的通過煉也可以形成法輪。

Sư phụ: Tu luyện là việc nghiêm túc, có người họ chính là không nghe khuyên ngăn, họ cứ khăng khăng luyện lẫn, kết quả hỏng cả. Pháp Luân này và toàn bộ bộ cơ chế này của chúng ta, những thứ này đã trải qua những niên đại rất là xa xưa, những thời kỳ lịch sử rất là xa xưa, biết bao nhiêu thế hệ mới hình thành nên! Đó không phải là thứ mà người thường chúng ta hình thành được, là thứ rất trân quý, đã tu luyện xuất ra vô số Đại Giác Giả. Chư vị nói hủy là hủy Nó đi, trộn lẫn công khác luyện đã hủy Nó rồi. Tôi nói với chư vị rằng, chúng ta nói một câu cao hơn một chút, xét về một ý nghĩa nào đó thì Pháp Luân kia, Nó chính là vũ trụ, so với sinh mệnh của tự thân chư vị, so với nguyên thần của chư vị thì Nó trân quý hơn không biết bao nhiêu lần. Chư vị tùy tiện hủy Nó đi, mọi người hãy thử nghĩ xem. Đương nhiên tôi đã là độ chư vị, nên mang thứ này ra, có thể học thì học, không thể học thì cũng không còn cách nào cả. Phàm là Pháp Luân lại bị biến dạng nữa, tôi sẽ không tùy tiện lại cấp Pháp Luân cho họ nữa. [Nếu] họ thật sự muốn học, nhất tâm muốn học, thì còn phải xem có phải họ có thật sự muốn học hay không, có thể kiên trì tiếp tục không. Thật sự có thể học, nếu có thể học thì cấp cho một bộ cơ chế, họ tự mình dần dần thông qua luyện cũng có thể hình thành Pháp Luân.

弟子:李老師您如果是佛,您就不可以說,一切法都是邪的?

Đệ tử: Thầy Lý nếu Ngài là Phật, thì Ngài không được nói, [rằng] hết thảy các Pháp đều là tà?

師:我們大家學員聽到我說一切法都是邪的嗎?(沒有!)這人被那個附體支配的他的腦袋不知道說啥好了。主意識不清的人是度不了的。現在末法時期就是很亂的。再說哪,那些亂七八糟、邪門歪道的能稱其為法嗎?它有甚麼法呀?法只有一個——真、善、忍!其它正法、正教都在宇宙不同層次所證悟之理。

Sư phụ: Mọi người học viên chúng ta có nghe được tôi nói rằng hết thảy các Pháp đều là tà không? (Không có!) Người này bị con phụ thể kia chi phối não bộ của anh ta mà không biết đã nói gì nữa. Những người chủ ý thức không thanh [tỉnh] thì không độ được. Thời kỳ mạt Pháp hiện nay chính là rất loạn. Hơn nữa, những thứ loạn bát nháo, tà môn oai đạo kia có thể xứng được gọi là Pháp không? Chúng có Pháp gì chứ? Pháp chỉ có một: Chân-Thiện-Nhẫn! Những chính Pháp khác, chính giáo khác đều là Lý được chứng ngộ ở các tầng thứ khác nhau.

弟子:夢中守不住心性怎麼辦?

Đệ tử: Trong mơ không giữ tâm tính vững vàng thì làm thế nào?

師:那就是你自己的心性不堅定,對自己的要求還不高,原因是平時學法基礎還不紮實,所以要真修實修,這些事才能在思想中重視起來。

Sư phụ: Vậy là tâm tính tự thân chư vị không kiên định, yêu cầu với bản thân còn chưa cao, nguyên nhân là lúc bình thường nền tảng học Pháp chưa vững chắc; cho nên phải chân tu thực tu, những việc này trong tư tưởng mới có thể coi trọng lên.

弟子:沒有參加過學習班的,照您的書要求去煉是否能形成法輪?

Đệ tử: Những người chưa từng tham gia lớp học, mà luyện theo yêu cầu trong sách của Ngài thì có thể hình thành Pháp Luân không?

師:大家知道,我們傳的是修煉,高層次上修煉的東西了,可不是甚麼祛病健身的,那麼對人要求就是高的了。不是你煉了就能得到法輪,你煉的再好,時間再長,你要不按照我們要求的這個心性標準去做,不嚴格要求自己,不重德,不學法,啥都沒有,甚麼也形成不了。你要按照我們這個法要求去做,那麼甚麼都能得到。該得的,你自己學也是一樣,甚麼都落不下。那個書裏邊的字都是我的法身,所以你自然就會得到,也用不著自己去形成法輪,也自然有我的法身會保護你的。

Sư phụ: Mọi người biết rằng, điều chúng tôi truyền là tu luyện, những điều tu luyện tầng thứ cao, chứ không phải là thứ chữa bệnh khỏe người gì, vậy thì yêu cầu đối với người ta cũng phải cao. Không phải là chư vị cứ luyện là có thể có đắc Pháp Luân, chư vị luyện tốt đến mấy, thời gian lâu đến đâu, nếu chư vị không theo tiêu chuẩn tâm tính chúng tôi yêu cầu mà làm, không nghiêm khắc yêu cầu chính mình, không trọng đức, không học Pháp, thì không có gì cả, thứ gì cũng không thể hình thành. Nếu chư vị theo yêu cầu của Pháp này mà làm, vậy thì thứ gì cũng có thể đắc được. [Những gì] đáng được đắc, thì chư vị tự học cũng như thế, thứ gì cũng không bỏ sót. Chữ trong sách đó đều là Pháp thân của tôi, cho nên tự nhiên chư vị sẽ đắc được, cũng không cần tự mình phải hình thành Pháp Luân, cũng sẽ tự nhiên có Pháp thân của tôi bảo hộ chư vị.

弟子:社會上有人當著法輪大法學員的面攻擊法輪大法,我們應該如何維護法輪大法?

Đệ tử: Tại xã hội có người công kích Pháp Luân Công ngay trước mặt học viên Pháp Luân Công, chúng ta nên duy hộ Pháp Luân Đại Pháp như thế nào?

師:不理他就完了,也不用去跟他爭跟他鬥,他愛說甚麼說甚麼,不要理他就完了。不給他市場,不去聽就完了。

Sư phụ: Không cần để ý tới họ là xong, cũng không cần tranh với họ đấu với họ, họ thích nói gì thì nói nấy, không cần để ý tới họ là xong. Không cấp cho họ thị trường, không nghe là được rồi.

弟子:法輪大法弟子能不能到產房去?

Đệ tử: Đệ tử Pháp Luân Đại Pháp có thể tới phòng sinh sản không?

師:那有甚麼關係呀?有些問題提的很幼稚,大法修煉不怕任何東西,一正壓百邪。再說了,那個產房它也不是邪的,對小孩還會有好處哪。

Sư phụ: Điều đó có quan hệ gì chứ? Có những câu hỏi nêu ra rất ấu trĩ, tu luyện Đại Pháp không sợ bất cứ thứ gì, nhất chính áp bách tà. Hơn nữa, phòng sinh đó nó cũng không phải là tà, còn có ích với trẻ nhỏ nữa.

弟子:不是氣功師的作家寫的氣功書有沒有附體邪魔的東西在裏邊?

Đệ tử: Sách khí công do tác giả không phải là khí công sư viết thì có những thứ phụ thể tà ma ở trong đó không?

師:我告訴大家,不管他是一個作家也好,還是甚麼人也好,不是氣功師他寫出的氣功書,也會有那些個附體亂七八糟的東西控制他搞。他的思想是怎麼來的他自己以為是自己想的。也有些作家想寫氣功方面的東西,他去採訪那些個假氣功師,因為他也不知道那氣功師的功是哪來的,也會同樣招來這些東西,寫上去的東西也同樣都是那些東西。現在社會上很亂,各種假氣功都有,就是沒有邪的東西在裏面,不是氣功師寫的能修煉嗎?

Sư phụ: Tôi bảo mọi người này, bất kể họ là tác giả cũng vậy, hay là người nào đó cũng vậy; không phải là khí công sư mà viết ra sách khí công, thì cũng sẽ có những thứ phụ thể loạn bát nháo khống chế họ làm ra. Tư tưởng của họ đến [xuất hiện] như thế nào bản thân họ [vẫn] cho rằng là bản thân mình nghĩ ra. Cũng có những tác giả muốn viết những thứ về phương diện khí công, họ đi phỏng vấn những khí công sư giả kia, bởi vì họ cũng không biết công của khí công sư đó đến từ đâu, [họ] cũng giống thế mà chiêu mời những thứ này, những gì viết lên đó cũng đều là những thứ kia như nhau cả thôi. Hiện nay ở xã hội rất loạn, các loại khí công giả đều có; ngay cả không có thứ tà ở trong đó, [sách mà] không phải là khí công sư viết thì có thể tu luyện không?

弟子:在煉功之餘會找書看,主要是對一些名詞、術語不懂想多看一些了解而已,並非想多學法門?

Đệ tử: Những lúc rảnh rỗi sau khi luyện công tìm sách đọc, chủ yếu là đối với một vài danh từ, thuật ngữ không hiểu muốn đọc nhiều một chút để tìm hiểu mà thôi, chứ không muốn học nhiều pháp môn?

師:不要辯解。我們這裏是對你負責任,那些法門所講的東西,是那一法門的東西,帶有它那一法門的因素在裏面,你能在我們這裏用它嗎?我們這裏怎麼講的怎麼教的,其它術語也不是我們這一門的內涵。動作或魔附體的書每個字都是那東西。看就會進入你的身體。關於修煉和佛學的知識方面,我將會選一些歷史修煉人物出版,都是好的,正的,作為一般知識讀物,叫大家認識。

Sư phụ: Đừng biện giải. Tại đây chúng tôi là có trách nhiệm với chư vị, những thứ giảng ở các pháp môn đó, là thứ của pháp môn đó, có mang theo nhân tố của pháp môn ấy ở bên trong, chư vị có thể dùng nó tại chỗ chúng ta không? Tại đây chúng tôi giảng thế nào dạy thế nào, thuật ngữ khác cũng không phải là nội hàm trong môn này của chúng tôi. Động tác hay sách có ma phụ thể thì từng chữ đều là cái thứ đó. Hễ xem thì sẽ tiến nhập vào thân thể chư vị. Còn về phương diện tu luyện và tri thức Phật học, tôi sẽ chọn một số nhân vật tu luyện trong lịch sử mà xuất bản, đều là tốt, là chính, để làm thứ để đọc như tri thức thông thường, để mọi người nhận thức.

弟子:學習班上記老師解答問題的稿紙如何處理?

Đệ tử: Giấy nháp ghi chép Thầy giải đáp câu hỏi trên lớp học thì xử lý thế nào?

師:保存起來吧。另外跟大家講,我們在座有些人已經習慣於做筆記,可是往往聽不好課,就是做筆記這些人。因為他思想用在要記錄上,可是他往往記不全也聽不全,你只有靜靜去聽。你記不全,你照著筆記去做的時候,可是那個裏面是不全的,而且很可能是斷章取義的,因為你記不全。你要照著做可能弄不好就起到不好的效果。我跟大家講的就是我辦班以來,多次發生這些事情的經驗告訴大家,以前有不少人這樣做。這不是常人中的理論,往往效果都不好,你聽不全也記不全。將來我們還有書可以看。

Sư phụ: Hãy giữ lại. Ngoài ra [tôi] nói với mọi người rằng, có một số người chúng ta ngồi đây đã quen với việc ghi chép, nhưng thông thường lại nghe giảng không tốt, chính là những người làm việc ghi chép này. Vì tư tưởng của họ đang dùng vào ghi chép, nhưng họ thường ghi không đầy đủ và nghe cũng không đầy đủ; chư vị chỉ có [là] tĩnh tĩnh mà nghe. Chư vị ghi chép không đủ, khi chư vị chiểu theo ghi chép mà làm, nhưng trong đó không toàn vẹn, hơn nữa rất có thể là đoạn chương thủ nghĩa121, vì chư vị ghi không toàn vẹn. Nếu chư vị làm theo thì không khéo sẽ khởi hậu quả bất hảo. Điều tôi giảng cho mọi người chính là từ lúc tôi mở lớp cho tới nay, [là] kinh nghiệm đã nhiều lần xảy ra những việc này [nên] nói cho mọi người biết, trước kia có không ít người làm vậy. Đây không phải là lý luận trong người thường, [ghi chép] thông thường hiệu quả đều không tốt, chư vị nghe không toàn vẹn và chép cũng không toàn vẹn. Tương lai chúng ta sẽ có sách thì có thể đọc.

弟子:煉功的效果是不是跟情緒有關係?

Đệ tử: Hiệu quả luyện công có phải có quan hệ với tâm trạng?

師:情緒不好時不能煉功,特別是生氣時更不能煉。正法修煉應該忍,忍不是產生不好的情緒後再去忍,不是有氣了才去忍。你抱著不好的情緒那你還煉啥哪?你心裏生氣哪,恨哪,生氣而產生的各種心你能靜下來嗎?你煉功能有好效果?沒有按照法的要求去做,不是煉正法那就是練邪法。不是說煉了這個動作了,你就是這個法了。有許多師父教人,可是他沒有按照師父要求的心性、道德標準去做,結果他練出來都是邪的東西,亂七八糟的。你別看是他教的是好功,同樣一個功法煉出的東西可不一樣,你得真正按照他的心性標準去做。修煉那是一個非常嚴肅的問題。

Sư phụ: Khi tâm trạng không tốt thì không được luyện công, đặc biệt là khi tức giận thì càng không được luyện. Tu luyện chính Pháp cần phải Nhẫn, Nhẫn không phải là sau khi sinh ra tâm trạng không tốt rồi mới Nhẫn, không phải là tức giận rồi mới Nhẫn. Chư vị ôm giữ tâm trạng không tốt vậy thì chư vị còn luyện gì đây? Trong tâm chư vị nào là tức giận, nào là hận, các chủng tâm do tức giận mà sinh ra chư vị có thể tĩnh lại được không? Chư vị luyện công có thể có hiệu quả tốt không? Không làm theo yêu cầu của Pháp, không phải luyện chính Pháp thì chính là luyện tà pháp. Không hề nói luyện động tác này rồi, thì chư vị đã là [trong] Pháp này. Có rất nhiều sư phụ dạy người ta, nhưng họ không làm theo tiêu chuẩn tâm tính, đạo đức mà sư phụ yêu cầu, kết quả họ luyện ra đều là những thứ tà, loạn bát nháo. Chư vị chớ thấy họ dạy là công tốt, cùng một công pháp nhưng những thứ luyện ra có thể khác nhau; chư vị phải thật sự làm theo tiêu chuẩn tâm tính của họ. Tu luyện là vấn đề nghiêm túc phi thường.

弟子:看古今醫書對法輪大法有沒有影響?

Đệ tử: Xem sách y học cổ kim có ảnh hưởng đến Pháp Luân Đại Pháp không?

師:這沒有甚麼影響。看醫書沒有甚麼影響。但現在那些氣功醫書不能看。

Sư phụ: Không ảnh hưởng gì. Xem sách y học không có ảnh hưởng gì. Nhưng những sách y học khí công hiện nay thì không được xem.

弟子:有種瑜伽書講的是神的經典,講這神是創生一切宇宙的?

Đệ tử: Có loại sách Yoga122 giảng là kinh điển của Thần, giảng rằng Thần ấy sáng tạo ra tất cả vũ trụ?

師:不要聽這些,甚麼瑜伽呀,末法時期哪兒也不是淨土。

Sư phụ: Đừng nghe những thứ đó, Yoga gì chứ, thời kỳ mạt Pháp nơi nào cũng không phải là tịnh thổ.

弟子:通過勞動所得也是以德換來的嗎?

Đệ tử: Đắc được thông qua lao động cũng là dùng đức mà đổi lấy phải không?

師:與付出的大小也有關,一般勞動本身就是付出,得到的多於付出就要給德。

Sư phụ: Cũng có quan hệ với phó xuất lớn hay nhỏ, thông thường bản thân lao động đã là phó xuất, đắc được nhiều hơn phó xuất thì phải cấp đức.

弟子:只修心性不煉功?

Đệ tử: Chỉ tu tâm tính không luyện công?

師:那你只是一個好人而不是修煉的人。將來你只能做一個好人,來世得福報。

Sư phụ: Vậy chư vị chỉ là người tốt chứ không phải người tu luyện. Tương lai chư vị chỉ có thể làm người tốt, đời sau đắc phúc báo.

弟子:推轉法輪為甚麼只推四次而不准推轉九次?

Đệ tử: [Động tác] đẩy Pháp Luân xoay chuyển123 vì sao chỉ đẩy xoay bốn vòng mà không cho phép đẩy cho xoay chín vòng?

師:推四次就夠用了,推多了你會肚子痛,你會脹肚子。當然你學的時候不要緊的,學會以後,你要煉起功來就不能多推,推多了你要脹肚的。

Sư phụ: Đẩy bốn vòng là đủ dùng rồi, đẩy nhiều bụng chư vị sẽ đau, chư vị sẽ bị trướng bụng. Đương nhiên khi chư vị học thì không hề gì, sau khi học xong rồi, nếu chư vị bắt đầu luyện công thì không được đẩy nhiều hơn, đẩy nhiều chư vị sẽ bị trướng bụng.

弟子:生完小孩一個月內可以煉功嗎?

Đệ tử: Sinh con xong trong vòng một tháng có thể luyện công không?

師:當然可以。這沒有問題的,沒有劇烈的運動。

Sư phụ: Đương nhiên có thể. Điều này không vấn đề gì, không có vận động mạnh mẽ.

弟子:沒有參加過老師辦的班,在做完第五套功法後又出幾套別的動作?

Đệ tử: Chưa từng tham gia lớp học của Thầy, sau khi làm xong bài công pháp thứ năm lại xuất ra vài bộ động tác khác?

師:那就是有別的東西控制她了。這個問題我已經講過了,我們傳的只是這五套功法。她覺的挺好,歡喜心一起隨著就動起來了。你不想要,你就停下來,它也就沒有了。你隨著動起來的時候,你越動越高興,哎呀挺好的,那麼它就指揮你。可是那些個東西,你別看它動作很簡單,全都是破壞你身體的。你別看你打出那幾個動作來,全是破壞你身上那東西的,就那麼一會功夫就可能給你毀了。

Sư phụ: Vậy chính là có thứ khác khống chế cô ta rồi. Vấn đề này tôi đã giảng rồi, điều chúng tôi truyền chỉ là năm bộ công pháp này. Cô ta cảm thấy rất tốt, tâm hoan hỷ hễ nổi lên liền theo đó mà [chuyển] động. Chư vị không muốn, thì chư vị hãy dừng lại, nó cũng sẽ không còn nữa. Khi chư vị bắt đầu động theo, chư vị càng [chuyển] động thì càng cao hứng, ái chà tốt quá, vậy thì nó sẽ chỉ huy chư vị. Nhưng những thứ đó, chư vị chớ thấy động tác của nó thật đơn giản, toàn đều là phá hoại thân thể chư vị. Chư vị chớ thấy chư vị đánh ra mấy động tác đó, toàn là phá hoại những thứ trên thân chư vị, chỉ cần một lúc thôi là sẽ có thể hủy đi công phu của chư vị.

弟子:信仰天主教又煉法輪大法?

Đệ tử: Tín ngưỡng Thiên Chúa giáo lại luyện Pháp Luân Đại Pháp?

師:談起這個問題可能會談的很高,作為東方人我只能在這裏告訴大家你儘管去修。大法、正法難遇。只能給你說這些,今天的宗教能度人我就不會來傳大法了,反正大家去悟吧,你們現在是人,說的太高你也接受不了。

Sư phụ: Bàn tới vấn đề này thì có lẽ sẽ nói rất cao, [chư vị] là người phương Đông tôi chỉ có thể tại đây nói với mọi người rằng chư vị gắng sức tu. Đại Pháp, chính Pháp khó gặp. Chỉ có thể nói với chư vị như vậy, [nếu] tôn giáo hiện nay có thể độ nhân thì tôi đã không tới truyền Đại Pháp; dù sao mọi người hãy ngộ, chư vị hiện nay là con người, nói quá cao chư vị cũng không thể tiếp thu được.

弟子:煉法輪大法的青年能否允許存在著對異性的戀愛?

Đệ tử: Thanh niên luyện Pháp Luân Đại Pháp có thể được phép tồn tại tình yêu khác giới không?

師:我跟大家講了,要是在這個層次上,叫你把甚麼都放棄根本就不可能的,你也做不到。當然有些人可能對這些事情看的很淡,不過我告訴大家,在社會中修煉的,我們不提倡這樣做。但是我們法輪大法確實有一批專修的。將來我們有廟的時候,可能給他們提供一個修煉的場所。有許多僧人,修煉法輪大法之後可能寺院裏給他們造成很大困難,將來要給他提供這樣的修煉場所。但是作為在常人中修煉的這一部份,我們不主張你這樣做。那人人都修煉法輪大法了都不結婚,繁衍不了後代了,人都絕了種,那可不行。就是你在現有階段你可以成家立業。在常人中修煉的,最大限度的要符合常人這個狀態。咱們舉個例子說,你不結婚,你父母要為你很操心,他不理解你,別人也不理解你。符合常人這個狀態,對我們的修煉還是有好處的。因為最複雜的環境才能出高人的。

Sư phụ: Tôi giảng cho mọi người rồi, nếu ở tầng thứ này, bảo chư vị thứ gì cũng vứt bỏ thì hoàn toàn không khả năng, chư vị cũng làm không nổi. Đương nhiên có những người đối với những việc này có thể xem rất nhẹ; bất quá tôi bảo mọi người này, [với người] tu luyện trong xã hội, chúng ta không đề xướng làm như vậy. Nhưng Pháp Luân Đại Pháp chúng ta xác thực có một lô những người chuyên tu124. Tương lai khi chúng ta có chùa, có thể cung cấp cho họ một trường sở tu luyện. Có rất nhiều tăng nhân, sau khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp [thì ở lại] trong chùa có thể sẽ tạo thành khó khăn rất lớn cho họ, tương lai phải cấp cho họ một trường sở tu luyện như vậy. Nhưng với bộ phận tu luyện trong người thường này, chúng tôi không chủ trương chư vị làm thế. Nếu thế ai ai tu luyện Pháp Luân Đại Pháp rồi đều không kết hôn nữa, không thể sinh nở đời sau nữa, con người sẽ tuyệt chủng, vậy thì không được. Chính là trong giai đoạn hiện có chư vị có thể thành gia lập nghiệp. Tu luyện trong người thường, phải phù hợp với trạng thái này của người thường ở mức độ tối đa. Chúng ta lấy ví dụ, chư vị không kết hôn, cha mẹ chư vị sẽ rất lo lắng cho chư vị, họ không lý giải chư vị, người khác cũng không lý giải chư vị. Phù hợp với trạng thái này của người thường, đối với tu luyện của chúng ta vẫn là có chỗ tốt. Bởi vì hoàn cảnh phức tạp nhất mới có thể xuất cao nhân.

弟子:大師能否講您的戀愛經過?

Đệ tử: Đại sư có thể giảng về trải nghiệm tình yêu của Ngài không?

師:你不是來學法的,你是來幹甚麼的?你還想知道甚麼?修煉是非常嚴肅的事情,現在你還被情帶動著執著於這些。差距何等的大呀!

Sư phụ: Chư vị không phải là tới học Pháp, chư vị tới để làm gì? Chư vị còn muốn biết những gì? Tu luyện là việc nghiêm túc phi thường, hiện nay chư vị còn bị tình dẫn động mà chấp trước vào những thứ này. Sự cách biệt lớn biết nhường nào!

弟子:修成法輪大法能否去其它世界?

Đệ tử: Tu thành Pháp Luân Đại Pháp thì có thể tới thế giới khác không?

師:愛去哪兒去哪兒,修成了嘛。現在問這個話,將來真有那一天修成了,你就會無地自容!你不知道你說的是啥。你現在是人的思想,沒有神那境界的思維。

Sư phụ: Muốn đi đâu thì tới đó. Tu thành rồi mà. Hiện tại hỏi câu này, tương lai nếu quả thực có một ngày tu thành rồi, chư vị sẽ không biết giấu mặt vào đâu! Chư vị không biết lời chư vị nói là gì. Hiện nay chư vị là tư tưởng của con người, không có tư duy tại cảnh giới của Thần.

弟子:在煉靜功時要求清淨無為、無任何意念,那麼是不是在心性上也得要修成這種心理狀態?

Đệ tử: Khi luyện tĩnh công yêu cầu thanh tịnh vô vi, không có bất cứ ý niệm nào, vậy phải chăng về tâm tính cũng phải tu thành loại trạng thái tâm lý này?

師:是的!但是得慢慢才能達到,平時要注意,不管入靜到甚麼成度,你都要知道自己在這打坐,在這煉功,這個唯一的一點思想得保住,不保住你就迷糊過去甚麼都不知道,修的就不是你。

Sư phụ: Đúng vậy! Nhưng phải từ từ mới có thể đạt tới, lúc bình thường phải chú ý; bất kể nhập tĩnh đến mức độ nào, chư vị cũng phải biết mình đang ngồi đả tọa tại nơi đây, đang luyện công ở đây, một chút tư tưởng duy nhất này phải giữ vững, không giữ vững thì chư vị sẽ mơ hồ đi mất không biết gì cả, [người] tu sẽ không phải là chư vị.

弟子:學生在學校努力學習考上大學,對的起父母的行為是否違背真、善、忍?

Đệ tử: Học sinh ở trường nỗ lực học tập thi đỗ đại học, hành vi xứng đáng với cha mẹ thì có trái với Chân-Thiện-Nhẫn không?

師:這不違背真、善、忍。哪些是屬於執著,哪些是不屬於執著,很容易把它混淆的。我可以告訴大家,為了達到個人目地,滿足個人的癮好、慾望所做的事情,這就是執著;而為公、為大眾、為別人做的事情,或努力做好工作和功課就是應該的。大家想一想,那麼作為一個學員,作為一個學生你的天職就是把學習搞好,因為你是學生。那麼有的人想了,我的目地就是考大學。當然學習的目地就是不斷的向更高層次上發展,小學、中學、大學的,你也不能老在小學裏呆呀,肯定是這樣的。那麼我們想上大學這也不錯,可是哪,如果你不好好學習,你腦子裏頭想著上大學上大學,老是上大學,我說那就是執著。那麼大家想一想,咱們反過來講,你是一個學生你的天職就是應該把學習搞好,對的起家長,對的起學校,對的起老師。老師要為你付出,他給你講課;家長供你上學,撫養你上學。那麼你對的起家長,對的起這個學校老師,你自己努力把學習搞好,你不就自然上了大學嘛。你老想上大學、上大學,你學習不好你能上的了大學嗎?你不用老想上大學、大學,你上不去不白搭嗎?你不去想大學的事,你就努力學習好就行了。你把學習搞好了不就有了大學嗎?有了研究生嗎?就是這樣個道理。有些事情很簡單,但是很容易混淆的。還有我們有些人搞科研的、搞研究的算不算執著?你的研究成果,你做的這些事情,是公益事業為廣大社會服務的,為別人服務的,把這些事情做好,這是你的本職。作為一個工人也應該好好幹,對的起你這份工資的,對的起你這份薪水。是這樣吧?因為煉功人在哪裏都應該體現出是一個好人。

Sư phụ: Điều này không trái với Chân-Thiện-Nhẫn. Những gì thuộc về chấp trước, những gì không thuộc về chấp trước, rất dễ bị lẫn lộn. Tôi có thể nói cho mọi người rằng, những việc làm để đạt mục đích cá nhân, để thỏa mãn ham mê, dục vọng, đó chính là chấp trước; còn làm những việc vị công, vì đại chúng, vì người khác, hoặc nỗ lực làm tốt công tác và bài tập lại là điều nên làm. Mọi người thử nghĩ xem, vậy đã là một học viên, là một học sinh thiên chức của chư vị chính là học tập cho tốt, vì chư vị là học sinh. Vậy thì có người nghĩ rằng, mục đích của tôi là thi đại học. Đương nhiên mục đích của học tập chính là không ngừng phát triển lên trình độ cao hơn, tiểu học, trung học, đại học; chư vị cũng không thể cứ ở mãi tiểu học, khẳng định là như vậy. Đã vậy chúng ta muốn lên đại học thì điều này cũng không sai, nhưng mà, nếu chư vị không chăm chỉ học tập, trong đầu óc chư vị cứ nghĩ lên đại học lên đại học, cứ mãi là lên đại học, thì tôi nói rằng đó chính là chấp trước. Vậy mọi người hãy nghĩ, chúng ta xoay trở ại ngược trở lại giảng, chư vị là học sinh thiên chức của chư vị chính là nên học tập cho tốt, xứng đáng với phụ huynh, xứng đáng với nhà trường, xứng đáng với thầy cô giáo. Thầy cô vì chư vị mà phó xuất, họ giảng bài cho chư vị; phụ huynh cung cấp cho chư vị đi học, nuôi chư vị đi học. Vậy thì chư vị xứng đáng với phụ huynh, xứng đáng với thầy cô nhà trường ấy, bản thân chư vị nỗ lực học tập cho tốt, chẳng phải chư vị sẽ tự nhiên lên đại học sao. Chư vị cứ nghĩ tới lên đại học, lên đại học mãi, chư vị học tập không tốt liệu chư vị có thể lên đại học không? Chư vị không cần cứ mãi nghĩ lên đại học, đại học, chư vị không thể lên nổi chẳng phải vô ích hay sao? Chư vị không nghĩ tới chuyện đại học, chư vị cứ nỗ lực học tập tốt là được rồi. Chư vị học tập cho tốt chẳng phải sẽ có đại học sao? Sẽ có nghiên cứu sinh sao? Chính là đạo lý như vậy. Có một những việc đơn giản thôi, nhưng rất dễ bị lẫn lộn. Chúng ta còn có một số người làm nghiên cứu khoa học, làm nghiên cứu có tính là chấp trước không? Thành quả nghiên cứu của chư vị, những sự việc mà chư vị làm ấy, là sự nghiệp công ích phục vụ cho quảng đại xã hội, phục vụ cho người khác, làm tốt những sự việc ấy, đó là bổn phận của chư vị. Là một công nhân thì cũng phải làm việc chăm chỉ, xứng đáng với tiền lương của chư vị, xứng đáng với thù lao của chư vị. Phải như vậy không? Bởi vì người luyện công ở đâu thì cũng nên thể hiện là người tốt.

弟子:煉功時進入完全忘我的狀態,連周圍的任何聲音都聽不見,感到自己身體消失了這種狀態?

Đệ tử: Khi luyện công tiến nhập vào trạng thái hoàn toàn vong ngã125, trạng thái mà ngay cả bất kể âm thanh nào xung quanh cũng không nghe thấy, cảm thấy thân thể của mình tiêu [đi] mất?

師:這種狀態很好。我們煉功要求入靜,會出現兩種狀態。可不像其它功法,往那一坐啥也不知道了,煉了好幾個小時一出定,哎喲,覺的好像是坐那麼一會兒,才十幾分鐘,可是一看錶已經過去很長時間了。他還樂的不行,定力真高,煉的真好。你要在其它法門修煉都說他煉的好,可是在我這裏我就說他很可悲,很可悲!大家知道,我們修煉就要你自己真正的修煉自己,讓你自己真正的得功。所以你在定的很深的狀態下,你都要知道自己在這裏煉功。你會出現像提問題的狀態,不知道腿呀、身體呀、胳膊呀、手啊哪去了,甚至於自己的腦袋也沒有了,好像就有一個思想在。這個意識中這個思想,知道自己在這裏煉功,這是一個很好的狀態。再有哪,我們還可以有另一種狀態,就像坐在雞蛋殼裏一樣動不了,非常的美妙,可是知道自己在這裏煉功,也會出現這個狀態。

Sư phụ: Trạng thái này rất tốt. Chúng ta luyện công yêu cầu nhập tĩnh, sẽ xuất hiện hai loại trạng thái. Nhưng không giống những công pháp khác, hễ ngồi đó thì chẳng biết gì nữa, luyện hàng mấy tiếng đồng hồ rồi xuất định, ái chà, cảm thấy dường như ngồi một lúc, mới có mấy chục phút, nhưng hễ nhìn đồng hồ thì đã qua thời gian rất lâu rồi. Họ còn vui mừng khôn tả, định lực thật là cao, luyện thật là tốt. Nếu chư vị tu luyện trong những công pháp khác thì đều sẽ nói chư vị luyện được tốt; nhưng ở chỗ tôi đây thì tôi nói họ rất đáng buồn, rất đáng thương! Mọi người biết đó, chúng ta tu luyện chính là đòi hỏi bản thân chư vị phải thật sự tu luyện chính mình, để chư vị thật sự đắc công. Cho nên trong trạng thái chư vị định rất sâu, chư vị cũng phải biết mình đang luyện công tại nơi này. Chư vị sẽ xuất hiện trạng thái như câu hỏi nêu ra, không biết nào chân, nào thân thể, nào cánh tay, nào bàn tay đi đâu mất rồi, thậm chí đại não của mình cũng không còn nữa, dường như chỉ có một tư tưởng ở đó. Tư tưởng trong ý thức ấy, biết mình đang luyện công nơi đây, đó là một trạng thái rất tốt. Còn nữa, chúng ta còn có thể có một loại trạng thái khác, giống hệt đang ngồi trong vỏ trứng gà không thể động được, vô cùng mỹ diệu, nhưng biết bản thân đang luyện công ở đây, cũng sẽ xuất hiện trạng thái này.

弟子:我半夜醒來發現自己在做一些法輪大法的動作,自己感覺到法輪在旋轉、能量流很強?

Đệ tử: Nửa đêm tỉnh giấc phát hiện bản thân đang làm một số động tác của Pháp Luân Đại Pháp, tự mình cảm thấy Pháp Luân đang xoay chuyển, dòng năng lượng rất mạnh?

師:如果真是法輪大法動作那就很好,那可能是你的元神在煉,幫助你煉。如果是其它動作就有問題了。

Sư phụ: Nếu thật sự là động tác của Pháp Luân Đại Pháp thì rất tốt, đó có thể là nguyên thần của chư vị đang luyện, đang giúp chư vị luyện. Nếu là động tác khác thì là có vấn đề.

弟子:我在做前四套功法時體內有股力使肢體搖晃?

Đệ tử: Khi con đang thực hiện bốn bài công pháp đầu trong thân thể có luồng lực khiến người lay động?

師:我們有很多人很敏感。你的身體裏邊法輪在轉動的時候,隨著擺動,不要隨著他動。有的人不敏感,轉的力量很大他也感覺不出來。每個人的狀態都不一樣。

Sư phụ: Chúng ta có rất nhiều người rất mẫn cảm. Khi Pháp Luân trong thân thể chư vị đang chuyển động, sẽ lắc lư theo; đừng động theo Nó. Có người không mẫn cảm, lực lượng chuyển động rất lớn họ cũng không cảm giác ra được. Trạng thái của mỗi người đều khác nhau.

弟子:我們曾經修煉密宗多年,現已有功能並能與大師法身相通,如果這些都是真的對我們修煉法輪大法有輔導作用嗎?

Đệ tử: Chúng con từng tu luyện Mật tông nhiều năm, nay đã có công năng và có thể tương thông với Pháp thân của Đại sư, nếu những điều này đều là thật thì có tác dụng phụ đạo126 chúng con tu luyện Pháp Luân Đại Pháp không?

師:沒有輔導作用,而且沒有任何輔導作用。密宗是最低這層宇宙的如來之法理,怎麼能輔導宇宙的法呢?我跟大家講了,看的真的假的都很難說。即使看的是真的,也很難達到和我法身相通的成度,他不會和你這樣聯繫,是你自己以前學的那些東西給你演化出來的在騙你。所以要注意這些事,功能看不出誰高低,而是以心性區別一個修煉人的果位高低。

Sư phụ: Không có tác dụng phụ đạo, mà cũng không có bất kể tác phụ đạo nào. Mật tông là Pháp Lý của Như Lai của tầng vũ trụ thấp nhất này, sao có thể phụ đạo Pháp của vũ trụ đây? Tôi giảng cho mọi người rồi, điều nhìn thấy là thật hay là giả đều rất khó nói. Cứ cho điều nhìn thấy là thật, thì cũng rất khó đạt đến trình độ tương thông với Pháp thân của tôi, Họ sẽ không liên hệ với chư vị như vậy; [đó] là những thứ mà chư vị đã học trước đây diễn hóa ra cho chư vị để lừa chư vị. Cho nên phải chú ý những việc này, công năng thì không thể nhìn ra ai cao thấp, mà là lấy tâm tính để phân biệt ra quả vị cao thấp của người tu luyện.

弟子:對照老師大法寫日記檢查自己不足處可以嗎?

Đệ tử: Đối chiếu với Đại Pháp của Thầy mà viết nhật ký kiểm tra những chỗ thiếu sót của bản thân thì có được không?

師:我說也不一定把它記下來。你既然願意記就記吧,心裏頭知道哪裏錯了,我下次注意學法、提高自己就行了。

Sư phụ: Tôi nói rằng không nhất định ghi chép chúng. Nếu chư vị đã muốn ghi lại thì cứ ghi; trong tâm biết sai ở đâu, lần sau mình chú ý học Pháp, đề cao bản thân là được rồi.

弟子:讀師父專著時常常有幾行很眩目?一檢查正好是自己碰到的問題,是不是老師法身點化?

Đệ tử: Khi đọc tác phẩm của Sư phụ thường thường có vài hàng rất lóa mắt? Hễ kiểm tra thì vừa đúng là vấn đề mà bản thân gặp phải, có phải là Pháp thân của Thầy điểm hóa?

師:這都是大法中帶的法力。每個字都是佛、道、神的法身。

Sư phụ: Đây đều là Pháp lực mang theo trong Đại Pháp. Từng chữ đều là Pháp thân của Phật-Đạo-Thần.

弟子:一段時間內每做錯一件事或說錯一句話都要受到您的法身的懲罰,但是在另一段時間內做錯了、說錯了話您的法身卻不管?

Đệ tử: Trong một khoảng thời gian mỗi khi làm sai một việc hay nói sai một câu đều sẽ bị Pháp thân của Ngài trừng phạt, nhưng trong một khoảng thời gian khác làm sai, nói lời sai thì Pháp thân của Ngài lại không quản?

師:總管你,你還做錯不知悔改,也不能總是這樣點化呀!另外再說一件事。很多學員老想和我的法身溝通,目地哪,就是想要問一些甚麼事情,修煉的如何如何。我告訴大家,你只管去修,該你知道的,你必然就會知道;不該你知道的,就說明你沒有到應該知道的時候。平時多看書看透了,你甚麼問題都解決的了,都在這上面。有些問題你自己認識不到也好,說有疑難問題也好,你要真的學了這個法之後,你發現你甚麼問題都沒有了,一個一個問題都迎刃而解。

Sư phụ: Cứ mãi quản chư vị, chư vị vẫn làm sai mà không biết hối cải, cũng không thể cứ mãi điểm hóa như vậy! Ngoài ra lại nói một việc. Có rất nhiều học viên cứ muốn câu thông với Pháp thân của tôi, mục đích thì, chính là muốn hỏi một số sự việc, tu luyện thế nào thế nào. Tôi nói mọi người này, chư vị chỉ quản việc tu, [điều] nên [để] chư vị biết, tất nhiên chư vị sẽ biết; [điều] không nên [để] chư vị biết, thì chứng tỏ chưa đến lúc chư vị nên biết. Bình thường chư vị đọc sách cho nhiều đọc cho thấu rồi, thì vấn đề gì chư vị cũng đều giải quyết được, đều ở trong đó. Có một số vấn đề chư vị chưa nhận thức được cũng vậy, hay là có vấn đề nan giải cũng vậy, chỉ cần sau khi chư vị thật sự học Pháp này, chư vị sẽ phát hiện rằng vấn đề gì của chư vị cũng không còn nữa, từng vấn đề từng vấn đề đều được hóa giải dễ dàng.

弟子:只要開功開悟就是正果,就能到法輪世界去嗎?

Đệ tử: Chỉ cần khai công khai ngộ thì chính là chính quả, là có thể tới được thế giới Pháp Luân phải không?

師:悟有漸悟和頓悟。到最後真正完全打開的那個悟叫圓滿。但是有的人只能修到三界之內開功開悟的不叫圓滿,不能夠得正果。我說的是有的人不能夠下那麼大的努力,沒有那麼大決心去修,所以他達不到得正果,那就去不了法輪世界了。會有三界內開悟的,因為他就能修這麼高。修大法的不一定都去法輪世界,在更高果位圓滿的有更高的世界。

Sư phụ: Ngộ có tiệm ngộ và đốn ngộ. Cái ngộ mà đến cuối cùng thật sự hoàn toàn đả khai thì gọi là viên mãn. Nhưng có người chỉ có thể tu tới khai công khai ngộ trong tam giới thì không gọi là viên mãn, không thể đắc chính quả. Tôi nói ấy là có người không thể bỏ ra nỗ lực lớn như vậy, không có quyết tâm tu lớn như vậy, cho nên họ đạt không được đắc chính quả, vậy sẽ không tới được thế giới Pháp Luân. Sẽ có [người] khai ngộ trong tam giới, vì họ chỉ có thể tu cao ngần ấy. Tu luyện Đại Pháp không nhất định đều tới thế giới Pháp Luân, người viên mãn tại quả vị cao hơn thì có thế giới cao hơn.

弟子:人掉到這個物質空間中來是不是因為有情?

Đệ tử: Người ta rớt xuống không gian vật chất này phải chăng vì có ‘tình’?

師:不都是。上面沒有情,三界內才有情。你掉下來是因為你變的不符合上面的標準了,才掉下來了。而常人這個空間情是最重的。情是產生執著心的根本。

Sư phụ: Không phải đều như vậy. Bên trên không có tình, trong tam giới mới có tình. Chư vị rớt xuống là vì chư vị trở nên không phù hợp với tiêu chuẩn bên trên nữa, mới rớt xuống dưới. Mà trong không gian này nơi người thường thì tình là nặng nhất. Tình là gốc rễ sinh ra tâm chấp trước.

弟子:如何區別附體、元神?

Đệ tử: Phân biệt phụ thể, nguyên thần như thế nào?

師:你現在區別不了。不要老對這些事情感興趣,因為那個附體和你的身體會表現一樣大,你自己以前的身體今生也會表現出來,所以你根本就很難分的清是前世之身或附體。附體有的在身體裏,有的在外面。在頭上蹲著的,肩膀上蹲著的,或者趴在脖子後面的,這個比較好劃分。臥在身體裏的你就分不清了。修大法的都不存在甚麼附體的事,那是絕不允許的。

Sư phụ: Hiện giờ chư vị phân biệt không nổi. Không được cứ hứng thú với những việc này, bởi vì phụ thể đó và thân thể của chư vị sẽ biểu hiện lớn như nhau, thân thể trước đây của chính chư vị đến đời này cũng sẽ biểu hiện ra, cho nên về căn bản chư vị rất khó phân [biệt] rõ là thân thể của đời trước hay là phụ thể. Phụ thể có [cái] ở trong thân thể, có [cái] ở ngoài. Ngồi trên đầu, ngồi trên vai, hoặc bám sau cổ, thứ này tương đối dễ phân biệt. [Thứ] nằm trong thân thể thì chư vị phân [biệt] không rõ được. Người tu luyện Đại Pháp thì đều không tồn tại chuyện phụ thể gì cả, đó là tuyệt đối không được phép.

弟子:請問佛之上者如何稱呼?

Đệ tử: Xin hỏi bậc trên Phật thì xưng hô thế nào?

師:甚麼佛之上者?一般的常人永遠也不會叫知道那麼高的事。大體上我都講過佛道兩大家,在他們之上也是佛,也是道。你把它當作知識,你走出這個門,走出這個學習班,漸漸的用不了幾天你甚麼都想不起來。我講的這些東西,你只能知道個大概,而且你稀裏糊塗甚麼都說不出來。不能修煉在腦袋記憶中就抹掉它,常人是不允許知道這些東西的。

Sư phụ: Bậc trên Phật nào? Người thường bình thường vĩnh viễn không được biết việc cao như thế. Về đại thể tôi đều đã giảng hai gia lớn Phật và Đạo, phía trên họ cũng là Phật, cũng là Đạo. Chư vị coi nó là tri thức, chư vị bước ra khỏi cửa này, bước ra lớp học này, dần dần không cần tới vài ngày thì chư vị sẽ không thể nghĩ ra điều gì. Những điều tôi giảng này, chư vị chỉ có thể biết được đại khái, hơn nữa chư vị mơ mơ hồ hồ không thể nói ra được điều gì. Không thể tu luyện thì sẽ xóa bỏ nó trong ký ức trong đại não của chư vị, người thường không được phép biết những điều này.

弟子:情在佛法中的真正涵義是甚麼?

Đệ tử: Hàm nghĩa chân chính của ‘tình’ trong Phật Pháp là gì?

師:是宇宙大法、宇宙特性在最低層次的一種因素。我們過去一直沒有講這個根本的東西。在佛教中都講執著心,這個執著心、那個執著心,我們這裏也談到了各種執著心。但是哪,佛教中也沒有談到執著心的根本是甚麼,我們這裏給大家講出來了,就是因為有情在。當然修煉到要想得正果,基本上這個情就得去掉。

Sư phụ: Là một loại nhân tố tại tầng thấp nhất của Đại Pháp vũ trụ, của đặc tính vũ trụ. Trước kia chúng ta vẫn chưa hề giảng điều căn bản này. Trong Phật giáo đều giảng tâm chấp trước, tâm chấp trước này, tâm chấp trước kia; tại đây chúng tôi cũng bàn về các chủng tâm chấp trước. Nhưng mà, trong Phật giáo không hề nói tới căn bản của tâm chấp trước là gì; tại đây chúng tôi giảng ra cho mọi người rồi, chính vì có ‘tình’ ở đó. Đương nhiên tu luyện tới muốn đắc chính quả, thì về cơ bản tình này phải bỏ.

弟子:煉功時需要舌頭搭橋,戴上假牙無法搭橋怎麼辦?

Đệ tử: Khi luyện công cần đầu lưỡi bắc cầu127, lắp răng giả không thể bắc cầu thì làm thế nào?

師:戴上假牙不影響,你嘴裏含一個鉛板也沒有關係的,功都能給你穿透的。這沒有關係,我們不是練氣而是煉功。

Sư phụ: Lắp răng giả cũng không ảnh hưởng, trong miệng chư vị ngậm một miếng chì cũng không hề gì, công đều có thể xuyên thấu cho chư vị. Điều này không hề gì, chúng ta không phải là luyện khí mà là luyện công.

弟子:您前世是誰?

Đệ tử: Đời trước Ngài là ai?

師:我就是李洪志。我可不是釋迦牟尼佛。

Sư phụ: Tôi chính là Lý Hồng Chí. Tôi không phải là Phật Thích Ca Mâu Ni.

弟子:您在過去講課中提到了法輪聖王和釋迦牟尼在妙法蓮華經中提到的法輪聖王是一個人嗎?

Đệ tử: Pháp Luân Thánh Vương mà Ngài nhắc tới trong bài giảng trước kia có phải cùng là một với Pháp Luân Thánh Vương mà Thích Ca Mâu Ni nhắc tới trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa không?

師:歷史上釋迦牟尼佛確實提到了法輪聖王。過去釋迦牟尼佛多次講過法輪和法輪聖王的事情,後人在回憶釋迦牟尼佛講的這些事情的時候,已經不能全面的把它反映出來了。所以後人也不能理解釋迦牟尼佛講的原義了,發生曲解。後來又產生了甚麼銀輪、鐵輪、銅輪等說法都是後人編造出來的。說釋迦牟尼佛轉法輪如何如何,那個事情釋迦牟尼佛根本就不是講自己轉法輪。釋迦牟尼佛預見到將來看見、知道這樣一件事情將發生在未來。

Sư phụ: Trong lịch sử Phật Thích Ca Mâu Ni xác thực đã nhắc tới Pháp Luân Thánh Vương. Trước đây Phật Thích Ca Mâu Ni nhiều lần giảng những chuyện về Pháp Luân và Pháp Luân Thánh Vương; người đời sau khi nhớ lại những sự tình mà Phật Thích Ca Mâu Ni giảng ấy, thì đã không thể phản ánh chúng ra một cách toàn diện. Cho nên người đời sau cũng không thể lý giải nguyên nghĩa mà Phật Thích Ca Mâu Ni giảng, gây ra hiểu lầm. Sau lại còn sinh ra lối nói nào là ngân luân, thiết luân, đồng luân, v.v., đều là người đời sau biên tạo ra. Thuyết rằng Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển Pháp Luân như thế như thế; [kỳ thực] việc này Phật Thích Ca Mâu Ni hoàn toàn không giảng rằng chính mình chuyển Pháp Luân. [Mà là] Phật Thích Ca Mâu Ni dự kiến tương lai một việc như vậy sẽ xảy ra mà [Ông] nhìn được, biết được.

弟子:晚上煉神通加持法一打坐時就昏昏欲睡?

Đệ tử: Buổi tối luyện Thần Thông Gia Trì pháp khi vừa đả tọa liền mê mê muốn ngủ?

師:這是絕對不行的,一定要克服這個毛病,不然的話修煉的可能就不是你自己了。我們要明明白白的修煉。一坐就睡覺,其實沒煉功就是坐著睡覺而已,這也是干擾。

Sư phụ: Điều này tuyệt đối không được, nhất định phải khắc phục bệnh này, nếu không thì kẻ tu luyện có thể không phải bản thân chư vị. Chúng ta cần tu luyện một cách tỉnh táo minh bạch. Hễ ngồi là ngủ, kỳ thực không luyện công mà là ngồi ngủ thôi, đó cũng là can nhiễu.

弟子:在極樂淨土眾生沒有煩惱、沒有魔煉如何修行?

Đệ tử: Ở Tịnh Độ Cực Lạc chúng sinh không có phiền não, không có ma luyện thì tu hành như thế nào?

師:我告訴你沒有煩惱是不能修煉的,所以在極樂世界裏是很難修煉的。

Sư phụ: Tôi nói với chư vị rằng không có phiền não thì không thể tu luyện, cho nên trong thế giới Cực Lạc rất khó tu luyện.

弟子:老師的法身的法號?

Đệ tử: Pháp hiệu của Pháp thân của Sư phụ?

師:我的法身就是我,一體。這個不太好理解,沒有甚麼法號,就是李洪志。

Sư phụ: Pháp thân của tôi chính là tôi, [là] nhất thể. Điều này không dễ lý giải lắm, không có Pháp hiệu nào cả, chính là Lý Hồng Chí.

弟子:修煉中的疑問能和我們認為煉的比較好的老學員探討嗎?

Đệ tử: Những nghi vấn trong tu luyện có thể tìm tòi thảo luận với các học viên cũ mà chúng con cho là luyện khá tốt được không?

師:學員之間互相探討這沒有問題,很好。

Sư phụ: Tìm tòi thảo luận giữa các học viên với nhau điều này không hề gì, rất tốt.

弟子:工作時無意中感覺到前額兩眉中間處多次射出粉紅光、藍光、銀白光?

Đệ tử: Khi làm việc vô tình cảm giác thấy chỗ giữa hai lông mày trước trán nhiều lần phóng xuất ra ánh sáng màu hồng nhạt, màu xanh lam, màu trắng bạc?

師:這就是開天目現象,各種現象多的是。有人說我們這個能量是光怎麼在我身體裏存在?我昨天看到一個條子沒來的及解答。我告訴你,看著是光是因為天目層次不高看到的表現而已,而它存在的那個物體是相當實的物質。你天目層次不高看到另外空間裏的生命體像光一樣,因為能量大嘛。如果你天目層次很高,你會發現那邊的物體要比你用眼睛看這邊的物體還要實。所以過去的修煉人才說常人社會是假的幻象。

Sư phụ: Đây chính là hiện tượng khai thiên mục, các loại hiện tượng rất là nhiều. Có người nói năng lượng này của chúng con là ánh sáng sao lại tồn tại trên thân thể con? Hôm qua tôi thấy một tờ câu hỏi mà chưa kịp giải đáp. Tôi bảo chư vị này, nhìn thấy là ánh sáng là vì biểu hiện nhìn thấy được do tầng thứ thiên mục không cao mà thôi, còn vật thể tồn tại kia nó là vật chất rất thật. Tầng thứ thiên mục chư vị không cao thì nhìn các thể sinh mệnh tại không gian khác sẽ giống như ánh sáng, vì năng lượng lớn mà. Nếu tầng thứ thiên mục chư vị rất cao, chư vị sẽ phát hiện vật thể bên đó còn thật hơn cả vật thể bên này mà chư vị dùng mắt [thịt] nhìn thấy. Cho nên người tu luyện trong quá khứ mới nói xã hội người thường là huyễn tượng [hư] giả.

弟子:您說要去掉一切執著心,但您為普度眾生這本身不就是執著心嗎?

Đệ tử: Ngài nói rằng phải trừ bỏ tất cả tâm chấp trước, nhưng Ngài vì phổ độ chúng sinh bản thân đó chẳng phải là tâm chấp trước sao?

師:這人糊塗啊!看一個人在水裏快死了,把他救上來這是執著嗎?我是來度你的,我不是來修煉的,你要分清這個事情。而且我是做更大的事,只不過在人世講法而已。

Sư phụ: Người này hồ đồ rồi! Thấy một người dưới nước sắp chết rồi, cứu họ lên đó là chấp trước sao? Tôi là tới độ chư vị, tôi không phải tới tu luyện, chư vị phải phân rõ sự việc này. Hơn nữa tôi là làm việc lớn hơn, tại thế gian cõi người bất quá chỉ là giảng Pháp mà thôi.

弟子:為普度眾生脫離苦難心生慈悲這算不算情?

Đệ tử: Vì phổ độ chúng sinh thoát ly khổ nạn mà tâm sinh từ bi đó có tính là ‘tình’ không?

師:你現在的基礎上談慈悲實際上是情的作用。慈悲不是情!常人是有情在的,昇華上去之後沒有情,你才能真正理解甚麼是慈悲。

Sư phụ: Trên cơ sở hiện nay từ bi mà chư vị nói tới thực tế là tác dụng của tình. Từ bi không phải là tình! Người thường là có tình; thăng hoa lên trên rồi không có tình, chư vị mới có thể thật sự lý giải từ bi là gì.

弟子:天目比較高的人經常告訴學員煉到甚麼成度了?

Đệ tử: Người thiên mục khá cao thường nói cho học viên đã luyện tới trình độ nào rồi?

師:他是破壞法輪大法。我告訴大家,我們到甚麼時候也不要聽信這些。一個人煉了多高了,絕對不會隨隨便便的讓誰去講的。有的人在顯示心的作用下就喜歡講這些事情,天目開了,你也不一定看到他修煉多高了。極特殊的確實很不錯的,真能看到了他不會說。我們互相切磋,說你哪個地方功怎麼樣了,煉出個好東西,這倒是可以的。你這個人煉多高了,我多高了,你多高了,他多高了,這就是破壞法。絕不會讓他看這種現象的,那不是助長人的執著心嗎?攀比呀,互相之間甚麼現象都會出現的。我還是這句話,大家到甚麼時候都要以心性修煉的高低為準。心性不高的才會幹這些事,那麼心性不高功會高嗎?功不高能看準嗎?

Sư phụ: Họ là phá hoại Pháp Luân Đại Pháp. Tôi bảo mọi người này, chúng ta dù tới lúc nào cũng không được nghe theo những lời đó. [Việc] một người đã luyện được cao ngần nào, thì tuyệt đối sẽ không tùy tùy tiện tiện để ai nói giảng [ra]. Có người dưới tác dụng của tâm hiển thị chỉ thích nói những chuyện này; thiên mục đã khai mở, chư vị cũng không nhất định nhìn thấy người kia tu luyện cao bao nhiêu. [Trường hợp] cực đặc thù thực sự rất khá, [nếu] thật sự có thể nhìn thấy thì họ cũng sẽ không nói. Chúng ta chia sẻ với nhau, nói rằng anh về chỗ nào có công như thế nào, luyện ra được thứ gì tốt, điều này thì lại khả dĩ. [Còn nói] bạn đã luyện được bao cao, tôi bao cao rồi, bạn bao cao rồi, họ bao cao rồi, đó chính là phá hoại Pháp. Tuyệt đối sẽ không để họ nhìn thấy hiện tượng đó, thế chẳng phải khuyến khích tâm chấp trước của người ta sao? Rồi là ganh đua, giữa mọi người với nhau hiện tượng gì cũng sẽ xuất hiện. Tôi vẫn là câu nói ấy, mọi người dù tới lúc nào cũng phải lấy tâm tính tu luyện được cao thấp [thế nào] làm chuẩn. [Người] tâm tính không cao mới làm những chuyện này, như vậy tâm tính không cao liệu công có cao không? Công không cao thì có thể nhìn chuẩn không?

弟子:新學員在班上已得到師父給的法輪、氣機、法身,都是極其珍貴的,根據宇宙不失不得之理我們由此應該付出些甚麼?

Đệ tử: Trên lớp học viên mới đã đắc được Pháp Luân, khí cơ, Pháp thân mà Sư phụ cấp cho, đều cực kỳ trân quý; căn cứ vào Lý ‘bất thất bất đắc’ của vũ trụ thì chúng con vì thế mà nên phải phó xuất những gì?

師:那法身是保護你的,可不是給你的。其實我就是叫你得法,叫你修煉,叫你返本歸真,就要你這顆向上的心。

Sư phụ: Pháp thân đó là bảo hộ chư vị, chứ không phải là cấp cho chư vị. Kỳ thực tôi chính là để chư vị đắc Pháp, để chư vị tu luyện, để chư vị phản bổn quy chân, chỉ cần cái tâm hướng thượng của chư vị thôi.

弟子:密宗中的法輪和您講的法輪有區別嗎?

Đệ tử: Pháp luân trong Mật tông và Pháp Luân mà Ngài giảng có khác biệt không?

師:不是一回事。它那個法輪是意念,而且是人為意念控制的。我這裏是真正的、有形的、實體的。

Sư phụ: Không phải là một chuyện. Pháp luân của họ là ý niệm, hơn nữa là ý niệm cố ý khống chế. Của tôi là thứ chân chính, hữu hình, thực thể.

弟子:我在香港參觀了天壇大佛,請問老師現在社會為甚麼建這麼大的佛像哪?

Đệ tử: Con đã tham quan Thiên Đàn Đại Phật ở Hồng Kông, xin hỏi Thầy xã hội hiện nay vì sao xây tượng Phật to lớn như vậy?

師:那是常人想做的事情。現在這個佛教中有許多人還想建更大的廟,這都是常人的事情。

Sư phụ: Đó là những việc người thường muốn làm. Hiện nay trong Phật giáo có rất nhiều người còn muốn xây chùa to hơn, đó đều là việc người thường.

弟子:如果有人修成圓滿在上面能否看到大師?

Đệ tử: Nếu có người tu thành viên mãn [thì] ở trên kia có thể thấy Đại Sư không?

師:你只要真正修,不用你圓滿你都能看的到的。當然圓滿就更能看到了。

Sư phụ: Chư vị chỉ cần tu chân chính, không cần chư vị viên mãn chư vị cũng có thể thấy được. Đương nhiên viên mãn thì càng có thể thấy được.

弟子:甚麼是專修弟子?甚麼是真修弟子?

Đệ tử: ‘Đệ tử chuyên tu’ là gì? 'Đệ tử chân tu' là gì?

師:專修弟子就是像寺院中那種修煉形式,就屬於專修弟子。真修弟子就是真正修煉的弟子。

Sư phụ: ‘Đệ tử chuyên tu’ chính là loại hình thức tu luyện giống trong chùa, [họ] thuộc về đệ tử chuyên tu. ‘Đệ tử chân tu’ chính là đệ tử tu luyện chân chính.

弟子:我是一個學生平時打坐來看書或者作業可以嗎?

Đệ tử: Con là học sinh lúc bình thường ngồi đả tọa để đọc sách hoặc làm bài có được không?

師:平時打坐來看書或做作業,那你只能是單一的練練盤腿,那就不算煉功。反正也有好處,能使那個腿盤的時間長,只是單一的練腿。

Sư phụ: Bình thường ngồi đả tọa mà đọc sách hoặc làm bài, vậy thì chư vị chỉ có thể là đơn thuần luyện xếp bằng thôi, đó không tính là luyện công. Dù sao cũng có chỗ tốt, có thể khiến thời gian xếp bằng lâu hơn, chỉ là đơn thuần luyện chân.

弟子:三花聚頂時元嬰是否和本人一樣大?

Đệ tử: Khi tam hoa tụ đỉnh nguyên anh có lớn như bản thân người ta không?

師:那是不可能的。三花聚頂的元嬰也就是長的像一、兩歲的小孩子大小,還得煉的好的,有的像幾個月的小孩子似的那麼大。

Sư phụ: Điều đó không thể nào. Nguyên anh khi tam hoa tụ đỉnh thì kích cỡ như đứa trẻ 1, 2 tuổi, [đó] phải là luyện được tốt, có [trường hợp] chỉ lớn như đứa trẻ vài tháng tuổi.

弟子:生命體產生和宇宙特性同化應該只有真、善、忍,怎麼還會有先天性格哪?

Đệ tử: Thể sinh mệnh sinh ra đồng hóa với đặc tính vũ trụ nên chăng chỉ có Chân-Thiện-Nhẫn, làm sao còn có tính cách tiên thiên?

師:性格是人的性格問題。說這個人就好急,性格比較急,幹甚麼事快;那人就是慢性,幹甚麼事就是慢。性格是性格,這是兩回事情。為甚麼本源物質會組合成不同物體,有木頭、有鐵,是一回事,但特性都是真、善、忍。

Sư phụ: Tính cách là vấn đề tính cách của con người. Chẳng hạn người này hay sốt ruột, tính cách khá gấp gáp, làm gì cũng nhanh; người kia thì tính chậm, làm gì cũng chậm. Tính cách là tính cách, đây là hai chuyện khác nhau. Vì sao vật chất bản nguyên tổ hợp thành những vật thể khác nhau, có gỗ, có sắt, là cùng một chuyện, nhưng đặc tính đều là Chân-Thiện-Nhẫn.

弟子:您打的大手印是不是跟傳法的涵義一樣?

Đệ tử: Đại thủ ấn mà Ngài làm phải chăng có hàm nghĩa giống như truyền Pháp?

師:因為那個講的就比較高一些,反正是人得法不容易,這個緣份來的也不容易,就是叫大家別錯過這個機會。

Sư phụ: Vì điều đó giảng ra là cao hơn một chút, dù sao thì con người đắc Pháp cũng không dễ, duyên phận này đến cũng không dễ dàng, chính là bảo mọi người đừng bỏ lỡ cơ hội này.

弟子:人能否修到超過生他元神的他父母所在的層次?

Đệ tử: Người ta có thể tu vượt qua tầng thứ sở tại của cha mẹ sinh ra chủ nguyên thần của họ không?

師:你現在不要想入非非。我告訴大家,你還不知道你現在低到甚麼成度,你還敢想那麼高的事情。一個人能夠修多高得看他自己的承受能力;看他帶的這個德和業的物質的比例。也就是你的根基和你自己的忍耐能力,這些因素決定你能修多高。所以你說我就想修那麼高,你沒有那個承受力,到時候你會瘋的。但也都不是絕對的,只是你現在是人的思維。

Sư phụ: Bây giờ chư vị đừng nghĩ viển vông. Tôi bảo mọi người này, chư vị còn chưa biết hiện nay chư vị thấp nhường nào, chư vị còn dám nghĩ chuyện cao như vậy. Một người có thể tu cao bao nhiêu còn phải xem năng lực chịu đựng của bản thân họ; xem tỷ lệ vật chất đức và nghiệp mà họ mang theo. Nghĩa là căn cơ của chư vị và năng lực nhẫn nại của chư vị, những nhân tố này quyết định chư vị có thể tu được bao cao. Cho nên chư vị nói tôi là muốn tu cao ngần ấy, chư vị không có sức chịu đựng đó, tới lúc thì chư vị sẽ bị điên. Nhưng cũng không phải là tuyệt đối, chỉ là hiện nay chư vị là tư duy của con người.

弟子:赤橙黃綠青藍紫有色無色代表著不同的層次,從哪些方面能看出來?如果天目沒開能從臉上膚色看出來嗎?

Đệ tử: Đỏ cam vàng lục lam chàm tím hữu sắc vô sắc đại biểu cho tầng thứ khác nhau, từ phương diện nào có thể nhìn ra? Nếu thiên mục chưa khai mở thì có thể nhìn ra từ sắc da trên mặt không?

師:那看不出來,這不是常人看的事情,所以人的眼睛就看不出來。

Sư phụ: Nhìn không ra, đây không phải việc mà người thường nhìn được, cho nên mắt người sẽ nhìn không ra.

弟子:我以前學過某某功出偏,總有物體在我體內亂竄,誤入歧途。現在決心修煉法輪大法夢見某某來干擾?

Đệ tử: Trước kia con học công ABC bị thiên [sai]128, cứ luôn có vật thể chạy loạn trong thân thể con, [con đã] lầm đường lạc lối. Hiện nay quyết tâm tu luyện Pháp Luân Đại Pháp lại mơ thấy ABC tới can nhiễu?

師:你想修啥煉啥就看你這顆心了。全是自己說了算。你修大法的心很堅定了誰也干擾不了,也不允許再干擾了。我也不允許了。

Sư phụ: Chư vị muốn tu gì luyện gì thì hãy xem cái tâm của chư vị thôi. Tất cả ở mình quyết định. Tâm tu Đại Pháp của chư vị rất kiên định rồi thì ai cũng không can nhiễu nổi, cũng không cho phép lại can nhiễu nữa. Tôi cũng không cho phép.

弟子:元神很年輕能否修到很高?

Đệ tử: Nguyên thần rất trẻ thì có thể tu được rất cao không?

師:這不在元神年不年輕、年不年老,不在這個。

Sư phụ: Điều này không ở việc nguyên thần trẻ hay không, già hay không, không phải bởi điều ấy.

弟子:聽了大法之後知道修煉是很緊迫的事,怎樣才能增加勇猛精進的大忍之心?

Đệ tử: Sau khi nghe [giảng] Đại Pháp biết được tu luyện là việc rất cấp bách, làm thế nào mới có thể tăng thêm tâm Đại Nhẫn dũng mãnh tinh tấn?

師:能不能忍,忍到甚麼成度那都是你自己說了算。增加忍的能力沒有甚麼訓練,那都看你自己在吃苦中的承受能力。心中有法,慈悲對待周圍的一切,碰到甚麼事可能會做的好一些。

Sư phụ: Có thể Nhẫn hay không, Nhẫn tới mức độ nào đều là bản thân chư vị quyết định. Tăng thêm năng lực Nhẫn thì không có [chuyện] huấn luyện gì cả, đó đều xem năng lực nhẫn chịu của bản thân chư vị trong chịu khổ. Trong tâm có Pháp, từ bi đối đãi với mọi thứ xung quanh, gặp phải chuyện gì cũng sẽ có thể làm được tốt hơn một chút.

弟子:功身、法身有甚麼不同?

Đệ tử: Công thân, Pháp thân có gì khác nhau?

師:你們不會有功身的,以後也不會有。修煉圓滿之後只能夠有法身。宇宙中的一切生命都沒有功身。

Sư phụ: Chư vị sẽ không có công thân, sau này cũng sẽ không có. Sau khi tu luyện viên mãn chỉ có thể có Pháp thân. Hết thảy sinh mệnh trong vũ trụ đều không có công thân.

弟子:去各種心的考驗在世間法中過一遍,到了出世間法是每到一個果位過一遍,還是一個果位的上中下層各過一遍?

Đệ tử: Vượt qua một lượt khảo nghiệm các chủng tâm trong thế gian Pháp, đến xuất thế gian Pháp là mỗi quả vị thì vượt qua một lượt, hay là mỗi tầng thượng trung hạ của quả vị thì vượt qua một lượt?

師:人在修煉過程中大體上給你安排的整個這條路,就是一直到你開悟就是一個修煉過程,要在這修煉過程中把你所有的心全部去掉的。不是說甚麼世間法那麼一層,出世間法那麼一層,一直到你圓滿,都是這樣給你安排的。

Sư phụ: Con người trong quá trình tu luyện về đại thể là an bài cho chư vị con đường hoàn chỉnh, tức là một mạch đến chư vị khai ngộ ấy là một quá trình tu luyện, cần phải trong quá trình tu luyện này mà tất cả các tâm của chư vị toàn bộ vứt bỏ hết. Không phải nói nào là một tầng thế gian Pháp như thế, một tầng xuất thế gian Pháp như thế; một mạch đến khi chư vị viên mãn, đều là an bài cho chư vị như vậy.

弟子:宇宙中的成、住、壞是否就是要把所有壞的東西全部炸掉從新組合?

Đệ tử: Thành-trụ-hoại trong vũ trụ phải chăng chính là cần cho nổ tung toàn bộ tất cả thứ xấu rồi tổ hợp lại mới?

師:過去是這樣的,壞的就毀掉再造。人類多次毀滅過,有些人也理解不了。你不能站在常人的角度考慮這些問題。我那天講了個道理,我說相當高相當高層次的那個佛道神看人那簡直太渺小了;而相當高的那個大覺者看如來都是常人;而更高更高的那個大覺者他要看人,那就像連細菌、微生物都不如。那麼人類的道德要敗壞了,地球像一個蘋果一樣,這個東西爛了,扔了它這不應該的嗎?不在那個境界中很難體察到這些。

Sư phụ: Quá khứ là như vậy, xấu tệ thì hủy đi rồi tái tạo. Nhân loại từng nhiều lần bị hủy diệt; một số người không lý giải nổi. Chư vị không thể đứng tại góc độ người thường mà suy xét những vấn đề này. Hôm nọ tôi giảng đạo lý này, tôi nói rằng Phật Đạo Thần tại tầng thứ rất cao rất cao nhìn con người thì quả thực quá bé nhỏ; mà Đại Giác Giả rất rất cao thì thấy Như Lai cũng như người thường; mà Đại Giác Giả cao hơn cao hơn nữa nếu họ nhìn con người, thì ngay cả vi khuẩn, vi sinh vật cũng không bằng. Vậy thì đạo đức nhân loại nếu bại hoại, địa cầu sẽ giống như một quả táo, thứ đó đã thối rữa, thì chẳng phải nên ném nó đi sao? Không ở trong cảnh giới đó thì rất khó thể nghiệm được những điều này.

弟子:請您給我們真修弟子淨化主元神?

Đệ tử: Xin Ngài tịnh hóa chủ nguyên thần cho đệ tử chân tu chúng con?

師:該做的我都做了,你不要亂想,有些事情你不明白。將來你們是最好的。

Sư phụ: Những gì nên cần làm thì tôi đều làm rồi; chư vị không được suy nghĩ lung tung, có những việc chư vị không hiểu. Tương lai chư vị sẽ là tốt nhất.

弟子:過去有的人用觀音的香預知事情,現在用師父的法像給觀音像開光後香譜還可用不可用?

Đệ tử: Trong quá khứ có người dùng hương của Quan Âm dự báo được các việc, hiện giờ sau khi dùng Pháp tượng của Sư phụ khai quang cho tượng Quan Âm thì hương phổ có thể dùng không?

師:你用那個香譜幹甚麼哪?那不是常人的做法嗎?修煉的人你預知甚麼?你想知道甚麼?你有沒有難?你好躲過去,躲過去了你就提高不了了,那還怎麼修?看你發不發財?你做好事情,你工作做的好或者是生意做的大,自然就有。這些事情都是常人的事情,不是修大法者所為。小道當然可以用。

Sư phụ: Chư vị dùng hương phổ đó làm gì? Đó chẳng phải là cách làm của người thường sao? Người tu luyện chư vị đoán biết điều gì? Chư vị muốn biết gì? Chư vị có nạn hay không? Chư vị dễ dàng trốn tránh, trốn được rồi thì chư vị không đề cao được nữa, vậy thì còn tu thế nào? Xem chư vị có phát tài không? Chư vị làm việc tốt, chư vị làm tốt công việc hoặc chuyện làm ăn làm được lớn, tự nhiên sẽ có. Những việc này đều là việc trong người thường, không phải việc của người tu Đại Pháp. [Người theo] tiểu đạo đương nhiên có thể dùng.

弟子:您講專修弟子的修煉如同寺院中的和尚修行,那麼這樣脫離了常人社會如何魔煉心性?

Đệ tử: Ngài giảng tu luyện của đệ tử chuyên tu nếu giống tu hành của hòa thượng trong chùa, vậy là thoát ly xã hội người thường như thế thì ma luyện tâm tính thế nào?

師:專修弟子怎麼修的問題,我們沒在這個班上講,那是將來的事。專修弟子也得到常人中來,過去和尚有雲遊,要在常人中吃苦要飯的,不得存錢存物。在常人中雲遊這都是在常人中魔煉的好機會。

Sư phụ: Vấn đề đệ tử chuyên tu tu như thế nào, chúng ta không giảng tại lớp này, đó là việc của tương lai. Đệ tử chuyên tu cũng phải tới nơi người thường, hòa thượng quá khứ có ‘vân du’, phải chịu khổ xin ăn trong người thường, không được tồn tiền tồn vật. Vân du trong người thường cũng là cơ hội tốt để ma luyện trong người thường.

弟子:練雙盤時是否可以將腳先盤好後用帶子固定著練?

Đệ tử: Khi luyện song bàn có thể trước hết xếp bằng cho tốt sau đó dùng dây cố định lại để luyện không?

師:這個我們沒有特殊的要求,根據自己的狀態吧。

Sư phụ: Điều này chúng ta không có yêu cầu đặc thù, hãy căn cứ theo trạng thái của mình.

弟子:國家……?

Đệ tử: Quốc gia…?

師:另外有問國家的事,常人中的具體事情,我不能夠給你解釋了。有些牽扯到政治問題的你也別來問我,我們向來不干涉政治、不干涉國家法紀的。我們煉功人怎麼做、怎麼叫無為、應該怎麼做,這些事情我們都講了。

Sư phụ: Ngoài ra có hỏi chuyện quốc gia, những việc cụ thể nơi người thường, tôi không thể giải thích cho chư vị. Có những câu hỏi liên quan tới chính trị chư vị cũng đừng tới hỏi tôi, chúng ta xưa nay không can thiệp chính trị, không can thiệp pháp luật kỷ cương của quốc gia. Người luyện công chúng ta làm thế nào, thế nào gọi là vô vi, nên làm thế nào, những sự việc này chúng tôi đều đã giảng rồi.

弟子:人人有心法的約束人類成為佛家淨土有可能嗎?

Đệ tử: Ai ai cũng có sự câu thúc của tâm pháp thì nhân loại có thể trở thành tịnh thổ129 của Phật gia không?

師:人類的道德水準都回升,這是有可能的。不但有可能,這是必然的,從現在來看是這樣的。要說都能成佛那是不可能的,人的心性高低不一樣,承受力大小也不一樣。人類社會一定會存在,因為它是大法從上到下最低一層法的體現,不會變成天國一樣的。

Sư phụ: [Nếu nói] tiêu chuẩn đạo đức của nhân loại đều nâng cao trở lại, điều này thì có khả năng. Không những có khả năng, mà đó là tất nhiên; từ hiện tại mà xét thì là như vậy. Nếu nói đều có thể thành Phật thì không thể nào, người ta tâm tính cao thấp khác nhau, sức chịu đựng lớn nhỏ cũng khác nhau. Xã hội nhân loại nhất định sẽ tồn tại, vì nó là thể hiện của tầng Pháp thấp nhất của Đại Pháp từ trên xuống dưới, sẽ không thành giống như thiên quốc được.

弟子:煉功人如果骨折?

Đệ tử: Người luyện công nếu gãy xương?

師:有的人也煉功,三天打魚兩天曬網,也不正經煉,也不按照那個心性要求自己,你也不是法輪大法修煉弟子,你甚麼事可能都會出的。噢,到時候你說法輪大法弟子骨折了。我告訴你真修的一般不會出現骨折。個別的如果前世欠下了這種業,也很難說,所以要注意。輔導員不要強化新學員煉功,一強化也會出問題,這不是我的做法。大法也講自心的改變,強化不就是強制嗎?一定要特別注意這個問題。

Sư phụ: Có người cũng luyện công, ba ngày đánh cá hai ngày phơi lưới130, cũng không luyện thường xuyên, cũng không chiểu theo tiêu chuẩn tâm tính mà yêu cầu bản thân, [vậy] chư vị cũng không là đệ tử tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, chư vị chuyện gì cũng có thể xảy ra. Ồ, tới lúc đó chư vị nói đệ tử luyện Pháp Luân Đại Pháp bị gãy xương rồi. Tôi nói với chư vị rằng nếu chân tu thì thông thường sẽ không xảy ra chuyện gãy xương. Có trường hợp cá biệt nếu đời trước nợ chủng nghiệp ấy, thì cũng rất khó nói, cho nên phải chú ý. Phụ đạo viên không nên thúc ép học viên mới luyện công, hễ thúc ép thì sẽ xuất hiện vấn đề, đó không phải là cách làm của tôi. Đại Pháp cũng giảng cải biến của tự tâm, thúc ép chẳng phải là cưỡng chế sao? Nhất định phải đặc biệt chú ý vấn đề này.

弟子:自我和一些新朋友介紹法輪大法後,我覺的自己的心性和身體狀態差了,是不是和別人講了?

Đệ tử: Từ sau khi con giới thiệu Pháp Luân Đại Pháp cho vài người bạn mới, con cảm thấy tâm tính và trạng thái thân thể của mình xấu đi, có phải là [do] đã nói với người khác không?

師:這個你是自己感覺吧。有些人他想學,你一說他就想學,你不會有甚麼狀態差了不差的感覺,那是在淨化身體的狀態,消業的表現。

Sư phụ: Đây hẳn là cảm giác của bản thân chư vị thôi. Có người họ muốn học, chư vị hễ nói là họ đã muốn học, chư vị sẽ không có cảm giác trạng thái nào là kém đi hay không kém đi; [còn] kia là trạng thái đang tịnh hóa thân thể, là biểu hiện tiêu nghiệp.

弟子:我是一名中學教師很想教我的學生們煉法輪大法,不知對否?

Đệ tử: Con là thầy giáo trung học rất muốn dạy Pháp Luân Đại Pháp cho học sinh của con, không biết có đúng không?

師:那當然對呀。理解不了那麼高,還可以鍛練身體的。能夠真正理解這個法,都做好人,人心向善,我說那不是大好事嗎?他要想往高層次上修煉,那我說你還積了大功德了。

Sư phụ: Đương nhiên là đúng. [Người] không lý giải được cao như vậy, thì vẫn có thể rèn luyện thân thể. Có thể thật sự lý giải Pháp này, đều làm người tốt, nhân tâm hướng Thiện, tôi nói đó chẳng phải đại hảo sự sao? Nếu họ muốn tu luyện lên cao tầng, thì tôi nói rằng chư vị đã tích đại công đức.

弟子:在搬家時不小心把老師的照片擦壞了?

Đệ tử: Khi chuyển nhà không cẩn thận lau hỏng ảnh của Thầy?

師:無意的,誰也不會怪你。

Sư phụ: Là vô ý, không ai trách chư vị cả.

弟子:如果生活在我們周圍的人問我關於煉功的事,能否告訴大家並教他們煉?

Đệ tử: Nếu người sống quanh chúng con hỏi con những thứ liên quan tới luyện công, thì có thể nói cho mọi người biết và dạy họ luyện không?

師:大家有這個願望想要學,那你就教吧。人家主動問你還不教嘛,洪揚法嘛。

Sư phụ: Mọi người có nguyện vọng muốn học như thế, vậy chư vị cứ dạy thôi. Người ta chủ động hỏi chư vị còn không dạy sao, hồng dương Pháp mà.

弟子:為甚麼我談完法輪大法後由非常誠心而變的對法輪大法功理有點懷疑了?

Đệ tử: Vì sao con nói về Pháp Luân Đại Pháp xong thì từ vô cùng thành tâm lại trở nên có chút hoài nghi về công lý131 của Pháp Luân Đại Pháp?

師:這有多方面原因。你的悟性啊,你的思想業力,自己理解的不深,你跟別人談的時候別人不相信。因為你也剛學,對你的干擾可能也有這方面關係。一般外面的干擾很小,都是你的思想業力和你自己對大法理解不深造成的。加上別人的不相信,可能會使你產生這個想法。

Sư phụ: Điều này có nguyên nhân nhiều phương diện. Ngộ tính của chư vị, nghiệp lực tư tưởng của chư vị, bản thân lý giải không sâu, khi chư vị nói với người khác người khác không tin. Bởi vì chư vị cũng vừa mới học, can nhiễu đối với chư vị có thể cũng có quan hệ về phương diện này. Thông thường can nhiễu từ bên ngoài rất nhỏ, đều là nghiệp lực tư tưởng của chư vị và bản thân chư vị lý giải Đại Pháp không sâu tạo thành. Thêm vào sự không tin tưởng của người khác, có thể sẽ khiến chư vị nảy sinh cách nghĩ đó.

弟子:在冬天煉完神通加持法把腿搬下來後身體感到很冷,這種現象正常嗎?

Đệ tử: Mùa đông luyện xong Thần Thông Gia Trì Pháp bỏ chân xuống cảm thấy thân thể rất lạnh, hiện tượng này có bình thường không?

師:初期煉功的時候不會一下就達到很高的境界。坐在那兒身體很舒服、熱乎乎的,初期不會這樣的。在煉功初期階段,你身體是有業力的,這個東西是黑的、是涼性的。煉功就是消業,感覺到有一些涼、冷,有這種現象存在。再加上冬天,你的身體不會很快的一下子就改變了,那也不可能的,以後就會好。

Sư phụ: Khi luyện công thời kỳ đầu sẽ không lập tức đạt tới cảnh giới rất cao. Ngồi ở đó thân thể rất dễ chịu, âm ấm, thời kỳ đầu sẽ không như vậy. Trong giai đoạn đầu luyện công, thân thể chư vị là có nghiệp lực, thứ này là thứ đen, là có tính lạnh. Luyện công chính là tiêu nghiệp, cảm thấy có chút mát, lạnh, có tồn tại hiện tượng này. Thêm nữa là mùa đông, thân thể chư vị sẽ không thật nhanh chóng lập tức cải biến, đó là không thể, về sau thì sẽ ổn.

弟子:自己以前沒有守好心性現在開始修是否還來的及?

Đệ tử: Trước kia bản thân không giữ vững tâm tính hiện nay bắt đầu tu thì có còn kịp không?

師:現在不是有很多新學員都是剛開始修嘛。但是哪,確實應該抓緊,特別年歲大的。

Sư phụ: Hiện giờ chẳng phải có rất nhiều học viên mới đều mới bắt đầu tu sao. Nhưng mà, xác thực là phải nhanh lên, đặc biệt là những người lớn tuổi.

弟子:看到人家有困難時幫助人家是自己的業力轉化為德還是拿別人的德?

Đệ tử: Khi thấy người khác khó khăn mà giúp đỡ người ta thì nghiệp lực của bản thân sẽ chuyển hóa thành đức hay sẽ lấy đức của người khác?

師:你看到人家有困難幫助人家,行善、做好事嘛。當你幫助人家做好事的時候,如果這件事情很難,你會吃苦,你自身的業力會得到轉化。一般主動幫助人是自願的不會轉化德。這件事情是有一定價值的,就是另外一回事情了。另外經常有難也可能在還業,或者有甚麼因緣關係,修煉的人把心用到這上邊那會幹壞事的,因為你看不到其中的因緣關係,所以我們才叫煉功的人要守德、無為。我們講的還有這樣一層意思:人家常人講積德、積德,那是常人做常人的事情,他是由常人那層的法約束的。而你是由修煉這層法約束的,執著於這些就不對。

Sư phụ: Chư vị thấy người khác khó khăn thì giúp đỡ người ta, hành Thiện, làm việc tốt mà. Khi chư vị giúp người ta làm việc tốt, nếu việc ấy rất khó, chư vị sẽ chịu khổ, thì nghiệp lực của tự thân chư vị sẽ được chuyển hóa. Thông thường chủ động giúp đỡ người ta là tự nguyện thì sẽ không chuyển hóa đức. Việc ấy có một giá trị nhất định, thì lại là một chuyện khác. Ngoài ra thường hay có nạn cũng có thể là đang trả nghiệp, hoặc có quan hệ nhân duyên gì đó; người tu luyện dụng tâm vào việc này thì sẽ làm chuyện xấu, vì chư vị nhìn không thấy quan hệ nhân duyên trong đó, cho nên chúng tôi mới bảo người luyện công phải thủ đức132, vô vi. Điều chúng tôi giảng còn có một tầng ý nghĩa như thế này: Người thường người ta giảng tích đức, tích đức, đó là người thường làm việc của người thường, họ là do Pháp của tầng người thường ước thúc. Còn chư vị là do Pháp của tầng tu luyện ước thúc, chấp trước vào những việc này là không đúng đâu.

弟子:如果真修法輪大法老師是否把魔難安排到得正果修成?

Đệ tử: Nếu chân tu Pháp Luân Đại Pháp thì Thầy có an bài ma nạn đến tu thành đắc chính quả không?

師:是。人在修煉過程中都得有難,而且難是自己造的業,從難中提高你自己的心性。你會碰到各種麻煩事情,你怎麼去對待呀?你怎麼體現出你是煉功人哪?不和別人一樣的見識,所以在整個修煉過程中都會碰到這樣的問題,一直到你圓滿。而且一直到圓滿為止,都體現著你對法能不能夠堅定的問題,會出現對這方面的考驗,根本上對法你都不相信了,那其它甚麼都談不上了。

Sư phụ: Đúng vậy. Người trong quá trình tu luyện đều phải có nạn, hơn nữa nạn là do nghiệp bản thân tạo ra, từ trong nạn mà đề cao tâm tính bản thân chư vị. Chư vị sẽ gặp các loại chuyện phiền phức, chư vị đối đãi ra sao? Chư vị thể hiện ra chư vị là người luyện công thế nào? Không so đo với người khác; cho nên trong toàn bộ quá trình tu luyện đều sẽ gặp các vấn đề như thế, một mạch đến khi chư vị viên mãn. Hơn nữa mãi cho tới viên mãn mới thôi, đều thể hiện ra vấn đề chư vị có thể kiên định đối với Pháp hay không, sẽ xuất hiện khảo nghiệm về phương diện này; về căn bản đối với Pháp mà chư vị còn không tin tưởng, thì khỏi cần bàn cái khác nữa.

弟子:對中下根基的人來說,比較起來極樂世界和法輪世界哪個容易修煉?在宇宙的中間大道修的快,還是邊緣上修的快?

Đệ tử: Đối với những người có căn cơ vừa và thấp mà nói, so sánh ra thì thế giới Cực Lạc và thế giới Pháp Luân thì cái nào dễ tu luyện hơn? [Theo] Đại Đạo ở giữa của vũ trụ tu được nhanh, hay theo biên duyên tu được nhanh?

師:大法修煉不能和其它比較。在修煉過程中,無論你怎麼修都是一樣要求的,標準要求一樣。修到多高你會得到多高的層次,那在宗教中就叫作果位,得到多高的果位。

Sư phụ: Không thể so sánh tu luyện Đại Pháp với cái khác. Trong quá trình tu luyện, dù cho chư vị tu như thế nào thì đều yêu cầu như nhau, tiêu chuẩn yêu cầu như nhau. Tu được cao bao nhiêu chư vị đắc được tầng thứ cao bấy nhiêu, điều đó trong tôn giáo gọi là quả vị, đắc được quả vị cao bao nhiêu.

弟子:廣州有很多人供關公是否可以用您的照片給關公開光?

Đệ tử: Quảng Châu có rất nhiều người thờ Quan Công thì có thể dùng ảnh của Ngài khai quang cho Quan Công không?

師:關公,在歷史上佛教把它叫作伽藍菩薩,但是是人拜出來的。那為甚麼道家也供關公啊?那是他的副元神修成的。還有一些個做生意的人也供關公,把它當財神,上面全是人拜出來的,或者是附體動物。你用我法身開光為甚麼?佛可不管你發財的。可能你有難時佛、菩薩會幫你,還得幫助那些個根基好的,或者是修煉的人。真正挽救你從常人這個苦海中脫離,可不是要給你發財。一個人甚麼病都沒有,甚麼難都沒有,舒舒服服的,比神仙過的都舒服,讓你修煉你都不去了,那還得吃苦。上甚麼極樂世界呀?這一下子夠極樂的了,哪有這種事啊。人生生世世造的業不還行嗎?要還業怎麼會有好日子過呢?其實那麼你拜出來的這些個東西也好,或者是那些個附體,亂七八糟這些東西,它可不是無條件的幫你的。它要索取的,從你身體上索取的,所以你別看發財那可不是個好事。當然人有沒有財這是複雜的原因,不是求來的,是自己前世帶來的。

Sư phụ: Quan Công, trong lịch sử Phật giáo gọi đó là Bồ tát Già Lam, nhưng là do người bái lạy ra. Vậy vì sao Đạo gia cũng thờ Quan Công? Đó là phó nguyên thần của ông ấy tu thành. Còn có những người làm ăn cũng thờ Quan Công, coi đó là Thần Tài, trên đó toàn là người bái lạy ra, hoặc là động vật phụ thể. Chư vị dùng Pháp thân của tôi khai quang để làm gì? Phật lại không quản việc chư vị phát tài. Có thể là khi chư vị gặp nạn thì Phật, Bồ Tát sẽ giúp chư vị, còn phải là giúp đỡ người có căn cơ tốt kia, hoặc là người tu luyện. Thật sự cứu vớt chư vị thoát khỏi bể khổ người thường này, chứ không phải cho chư vị phát tài. Một người bệnh gì cũng không có, nạn gì cũng không có, thoải mái dễ chịu, sống còn dễ chịu hơn cả thần tiên, thì bảo chư vị tu luyện chư vị cũng không làm; còn phải chịu khổ. Lên thế giới Cực Lạc gì chứ? Ngay lập tức đây cũng đủ cực lạc133 rồi; nào có chuyện như vậy. Người ta đời này qua đời khác nghiệp tạo ra không trả có được không? Muốn trả nghiệp sao có thể sống dễ chịu được chứ? Kỳ thực những thứ chư vị bái lạy ra ấy cũng vậy, hay những thứ phụ thể kia cũng vậy, những thứ loạn bát nháo ấy, nó không hề giúp chư vị một cách vô điều kiện. Nó muốn lấy đi, lấy đi từ trên thân thể chư vị, cho nên chư vị đừng nhìn vào phát tài đó lại không phải là chuyện tốt. Đương nhiên người ta có tiền tài hay không nó có nguyên nhân phức tạp, không phải cầu là được, là bản thân mình mang đến từ đời trước.

弟子:親情、愛情、友情與慈悲心所產生出來的愛之間的尺度應該如何衡量?

Đệ tử: Thước đo giữa tình thân, tình yêu, tình bạn và yêu thương sinh ra từ tâm từ bi thì nên đo lường như thế nào?

師:你現在還體察不出來人沒有情是甚麼滋味,也就不知道甚麼是慈悲。你現在想像的慈悲還是出自於情,所以你體察不到。人的甚麼妒嫉心、歡喜心,爭鬥的心,甚麼不服氣的心,害怕的心,反正是各種慾望、各種東西的執著都得去。喜歡與不喜歡,做甚麼事情,愛好與不愛好,想吃甚麼不吃甚麼,高興如何如何,不高興如何如何,一切都來源於這個情。人就是為了這個情而活著。那麼沒有情活著的高級生命那是甚麼樣啊?一個個的都橫眉冷對了,不是這樣的。人要去掉這個情,慈悲心就顯現出來了。而大覺者為甚麼能度人呢?因為他有慈悲,他可憐眾生。

Sư phụ: Hiện tại chư vị còn chưa thể nghiệm ra con người không có ‘tình’ là tư vị gì, nên cũng không biết ‘từ bi’ là gì. Từ bi mà chư vị bây giờ tưởng tượng vẫn là xuất phát từ tình, do đó chư vị thể nghiệm không được. Nào là tâm tật đố, tâm hoan hỷ, tâm tranh đấu, tâm không phục nào đó, tâm sợ hãi của con người, dù sao cũng là các chủng dục vọng, chấp trước vào các loại các thứ thì đều cần bỏ đi. Thích hay không thích, làm việc gì đó, yêu thích và không yêu thích, muốn ăn gì không muốn ăn gì, cao hứng thế nào thế nào, không cao hứng thế nào thế nào, hết thảy đều bắt nguồn từ cái tình này. Con người chính vì cái tình này mà sống. Vậy hỏi sinh mệnh cao cấp sống mà không có tình thì sao? Ai ai cũng mặt mày lạnh cứng với nhau ư, không phải thế đâu. Người ta mà tống khứ cái tình này, thì tâm từ bi hiển hiện ra. Còn Đại Giác Giả vì sao có thể độ nhân? Bởi vì họ có từ bi, họ thương xót chúng sinh.

弟子:為了練盤腿睡覺仰臥時而盤上腿?

Đệ tử: Để [rèn] luyện xếp bằng [nên] khi ngủ nằm ngửa mà xếp bằng?

師:這個我們倒不反對的。我壓壓腿,或者自己採取甚麼辦法練腿,但是我們可不主張大家都這樣做。另外欠有這方面業力的人,還有人修起來很慢,老是也提高不了,悟性也上不來,他光是煉動作。就是這些人他真的用甚麼東西去壓,或者是採取甚麼強化的辦法,「啪」一下把骨頭弄折了。那還給我們造成很大損失,別人會說是煉法輪大法煉的。所以我們可不能千篇一律的要求大家這樣做,因為每個人的各種情況很複雜。

Sư phụ: Điều này thì ngược lại chúng tôi không phản đối. [Như nói] tôi ép ép chân, hoặc mình chọn phương pháp gì đó luyện chân; nhưng chúng tôi không chủ trương mọi người đều làm vậy. Ngoài ra [có] những người mắc nợ nghiệp lực về phương diện này, còn có người tu lên rất chậm, mãi cũng không đề cao được, ngộ tính cũng không lên được, họ chỉ luyện động tác. Chính là những người này nếu thật sự dùng thứ gì đó để ép, hoặc chọn biện pháp cưỡng chế nào đó, “păng” một cái gãy xương. Điều đó còn tạo thành tổn thất rất lớn cho chúng ta, người khác sẽ nói là do luyện Pháp Luân Đại Pháp. Cho nên chúng ta không thể nghìn người như một yêu cầu mọi người làm như vậy, vì các loại tình huống của mỗi người rất phức tạp.

弟子:有時做夢會成為現實這是否……?

Đệ tử: Đôi khi nằm mơ sẽ trở thành hiện thực điều đó có phải…?

師:晚上做個夢,第二天好像是、或者是過幾天之後,這個事真的出現了。或者是我們在做一件甚麼事情的時候,感覺我好像是以前做過這個事情,記憶中沒有做過,可是又感覺自己甚麼時候做過這個事情,很多人都會有這種感覺。在你的生前,或者在很早以前你做過這樣的事,那也可能是你提前進入了你將要發生的那件事裏去了。看到了就是這麼個原因。

Sư phụ: Đêm nằm mơ một giấc, hôm sau rất là giống, hoặc vài ngày sau, chuyện ấy quả thật xuất hiện. Hoặc khi chúng ta làm việc gì đó, cảm thấy hệt như trước kia mình từng làm việc này, trong ký ức lại chưa từng làm, nhưng lại cảm thấy mình một lúc nào đó đã làm việc này; rất nhiều người đều có cảm giác này. Trong đời trước của chư vị, hoặc rất lâu trước kia chư vị từng làm việc đó, cũng có thể là chư vị từng tiến nhập trước vào việc sẽ xảy ra với chư vị. Nhìn thấy được chính là nguyên nhân như vậy.

弟子:有時真和忍衝突,如明知有人說假是依真指出來還是忍?

Đệ tử: Đôi khi Chân và Nhẫn xung đột, nếu biết rõ có người nói dối thì dựa vào Chân mà chỉ ra hay là Nhẫn?

師:還是我說的那句話,作為一個煉功人守德而不失德。目前的常人已經都是這樣了,變的張口就是假話了,這是常人的事你也管不了。你給他指出來說到他痛處,他可真是恨你,恨你咬牙切齒的。所以我們如何把自己修煉好了這是第一的。真的碰到甚麼大的壞人壞事了,大的原則性問題,殺人放火你不管,我說那是你心性不好。就是看你怎麼看待這些問題。

Sư phụ: Vẫn là câu tôi nói đó, làm người luyện công thủ đức chứ không mất đức. Người thường bây giờ đều thế cả rồi, biến thành hễ mở miệng là nói dối, đây là việc người thường chư vị quản không nổi. Chư vị chỉ ra cho họ nói tới chỗ đau của họ, họ thật sự sẽ hận chư vị, hận chư vị tới nghiến răng nghiến lợi. Do đó chúng ta làm sao tu luyện tốt bản thân mình đó mới là số một. Quả thực gặp phải người cực xấu việc cực xấu, vấn đề lớn mang tính nguyên tắc, [như] giết người phóng hỏa mà chư vị mặc kệ, thì tôi nói chư vị tâm tính bất hảo. Chính là xem chư vị đối đãi với những vấn đề này thế nào.

弟子:法輪大法學員是否可以學刮痧?

Đệ tử: Học viên Pháp Luân Đại Pháp có thể học cạo gió?

師:修煉法輪大法你搞這個東西幹甚麼?你自己刮還是給別人刮?我告訴大家,那是巫術,過去在我們東北跳大神才幹這個事的。跳大神,瘋瘋顛顛的,跳大神是附體,他才幹這個事。

Sư phụ: Tu luyện Pháp Luân Đại Pháp chư vị làm thứ này làm gì? Bản thân chư vị cạo hay là cạo cho người khác? Tôi bảo mọi người này, đó là vu thuật134, trước kia ở Đông Bắc chúng ta [chỉ khi] có ‘khiêu đại thần’135 mới làm cái đó. Khiêu đại thần, điên điên rồ rồ, khiêu đại thần là phụ thể, hắn mới làm cái việc đó.

弟子:練武術的人同時修煉法輪大法會不會受到破壞影響?

Đệ tử: Người luyện võ thuật đồng thời tu luyện Pháp Luân Đại Pháp thì có bị ảnh hưởng phá hoại không?

師:不會的,純粹的武術不會的。但是有一些個道家的武術它是帶有內修的東西,所以會干擾。比如太極拳、形意、八卦之類的就不能練,你練就混進去。它屬於氣功,那麼我給你下的這套東西就會亂。當然我也不是非叫你煉法輪大法,你覺的太極好,形意、八卦好你就去練。但是我只是告訴你個理,煉功、修煉它是個嚴肅問題,要專一的。

Sư phụ: Không, võ thuật thuần túy thì không. Nhưng nột số võ thuật Đạo gia là mang theo những thứ nội tu136, nên sẽ can nhiễu. Ví dụ những loại như Thái Cực Quyền, Hình Ý, Bát Quái thì không được luyện, chư vị luyện thì sẽ lẫn vào. Nó thuộc về khí công, như vậy bộ những thứ tôi cài cho chư vị sẽ bị loạn. Đương nhiên tôi cũng không phải là bảo chư vị cứ phải luyện Pháp Luân Đại Pháp, chư vị cảm thấy Thái Cực tốt, Hình Ý, Bát Quái tốt thì chư vị cứ luyện. Nhưng tôi chỉ là nói cho chư vị cái Lý này, rằng luyện công, tu luyện là vấn đề nghiêm túc, phải chuyên nhất.

弟子:我煉功時有時無意識的看到自己身體旁邊有一個和自己一樣的影子在煉功?

Đệ tử: Con khi luyện công có lúc vô ý thức mà nhìn thấy bên cạnh thân thể của mình có một bóng ảnh giống mình đang luyện công?

師:副元神一般的不讓他離體修煉,都是和你在一起,和你同時修的、同時煉的。當然也不是絕對的,可能有個別的情況,給你調整身體期間他出來是可能的。

Sư phụ: Phó nguyên thần thông thường không để nó rời thân thể tu luyện, đều là cùng một chỗ với chư vị, cùng với chư vị đồng thời tu, đồng thời luyện. Đương nhiên cũng không phải là tuyệt đối, có thể có tình huống cá biệt, trong thời kỳ điều chỉnh thân thể cho chư vị nó ra ngoài là có thể đó.

弟子:在開班的第二天和第三天吐了一團團似木頭纖維又似爛布的東西,接著幾天都吐血、都有血咳出來?

Đệ tử: Vào ngày thứ hai và ngày thứ ba của lớp học nôn ra một khối giống như sợi gỗ lại giống như thứ vải vụn, mấy ngày tiếp sau đều nôn ra máu, đều ho ra máu?

師:這還不好嘛。就像我講的,有的人連拉帶吐的,反正是要給你身體內臟都要淨化下來的,你才能真正修煉的。不淨化下來,就這個髒的身體,根本就出不了功的。所以這個現象非常好,有的人拉出像血塊子一樣的,連膿帶血的。我告訴大家,就是我們人甚麼都吃,甚麼不好事都做,那個身體搞的很糟了。反正是都得弄出來淨化下來,大家以後好好修煉吧。有很多人不修煉將會得惡性病的。修煉後調整身體時都排出去了。

Sư phụ: Đây chẳng phải hảo sự sao. Như tôi giảng, có người miệng nôn trôn tháo; dù sao cũng cần tịnh hóa nội tạng thân thể chư vị, thì chư vị mới có thể chân chính tu luyện. Không tịnh hóa, thì với thân thể dơ bẩn ấy, hoàn toàn không thể xuất công. Cho nên hiện tượng này hết sức tốt, có người đi ngoài ra thứ giống cục máu, cả máu lẫn mủ. Tôi nói mọi người này, chính vì con người chúng ta thứ gì cũng ăn, chuyện bất hảo nào cũng làm, thân thể bị làm thành rất tệ. Dẫu sao cũng phải đẩy ra tịnh hóa đi, sau này mọi người hãy tu luyện cho tốt. Có rất nhiều người không tu luyện sẽ mắc bệnh ác tính. Sau khi tu luyện khi điều chỉnh thân thể đều đã bài xuất ra rồi.

弟子:達到三花聚頂是否可以擺脫生死?

Đệ tử: Đạt đến tam hoa tụ đỉnh phải chăng có thể thoát khỏi sinh tử?

師:我們法輪大法修煉到三花聚頂這個層次的時候,是走在世間法修煉的最高層次了,但是還沒有走出三界。那麼再往前修煉下去,他將進入到淨白體狀態,身體完全被高能量物質轉化。到了這個時候,那才走到了世間法與出世間法的中間過渡時期,那麼很多事情都在這個過渡時期給你做完。當然你走出世間法修煉的時候,你才真正的脫離了生死輪迴出三界。

Sư phụ: Pháp Luân Đại Pháp chúng ta khi tu luyện tới tầng thứ tam hoa tụ đỉnh, là tới tầng thứ cao nhất của tu luyện thế gian Pháp, nhưng vẫn chưa ra khỏi tam giới. Vậy tu luyện tiếp về phía trước, họ sẽ tiến nhập vào trạng thái tịnh bạch thể, thân thể hoàn toàn được vật chất cao năng lượng chuyển hóa. Tới lúc này, thì mới bước vào thời kỳ quá độ giữa thế gian Pháp và xuất thế gian Pháp, vậy thì rất nhiều việc đều sẽ làm xong cho chư vị trong thời kỳ quá độ này. Đương nhiên khi chư vị xuất khỏi tu luyện thế gian Pháp, chư vị mới thực sự thoát khỏi luân hồi sinh tử [và] xuất khỏi tam giới.

弟子:打坐時忍受的成度很難忍受,再忍下去繼續打坐那是不是執著心?

Đệ tử: Mức độ nhẫn chịu khi đả tọa rất khó nhẫn chịu, nhẫn tiếp nữa tiếp tục đả tọa thì đó có phải tâm chấp trước không?

師:不是執著心。你在忍受時是忍受的痛苦,你在吃苦,你在付出。那不是執著心,那是消業。過去有些人不明白,他在那煉打坐盤腿,他腿一難受了他的腿就蹦下來,活動活動再煉;然後一難受他的腿又蹦下來,活動活動再煉。他以為這樣煉挺好,其實啥作用都不起。真正打坐往那一盤腿很疼的時候,疼的很劇烈的時候,發現那個很大很大的業力在往下消。消下去了這種物質不滅,它會轉化成白色物質。因為你付出、吃苦了,它會轉化成德了。因為往往打坐是陣痛,痛一陣子簡直受不了,一會兒它又緩過來了;一會兒它又開始痛。它和修心性是連帶的,所以它會鬧心。勞其筋骨,苦其心志,打坐時鬧你這個心,鬧的不行了,就想搬下來,這不是忍。

Sư phụ: Không phải tâm chấp trước. Khi chư vị nhẫn chịu là nhẫn chịu thống khổ, chư vị đang chịu khổ, chư vị đang phó xuất. Đó không phải tâm chấp trước, đó là tiêu nghiệp. Quá khứ có người không hiểu, họ ở đó luyện xếp bằng đả tọa, chân họ hễ khó chịu thì chân họ liền tháo ra, hoạt động hoạt động rồi lại luyện tiếp; sau đó hễ khó chịu chân họ lại tháo ra, hoạt động hoạt động rồi lại luyện tiếp. Họ tưởng rằng luyện vậy tốt lắm, kỳ thực không khởi tác dụng nào cả. Chân chính đả tọa hễ ngồi đó xếp bằng khi rất đau, khi đau rất kịch liệt, thì phát hiện ra nghiệp lực rất lớn rất lớn đang tiêu đi. Tiêu đi rồi [mà] vật chất này bất diệt, nó sẽ chuyển hóa thành vật chất màu trắng. Vì chư vị đã phó xuất, đã chịu khổ rồi, nó sẽ chuyển hóa thành đức. Vì thông thường đả tọa là đau từng trận, đau một trận quả đúng là không chịu nổi, lát nữa nó lại đỡ hơn; rồi lát nữa nó lại bắt đầu đau. Nó và tu tâm tính là [có] liên đới, cho nên nó sẽ làm náo [loạn] tâm. Nhọc cái gân cốt, khổ cái tâm chí, khi đả tọa làm náo loạn cái tâm này của chư vị, náo loạn tới mức không chịu nổi, chỉ muốn nhấc xuống, đó không phải là Nhẫn.

弟子:按您要求認真修煉心性,今世就一定能煉出出世間法嗎?

Đệ tử: Nghiêm chỉnh tu luyện tâm tính theo yêu cầu của Ngài, thì đời này nhất định có thể luyện được xuất thế gian Pháp phải không?

師:誰能這樣告訴你呢?你有這個決心嗎?你的承受能力、忍耐成度得你自己說了算,師父領進門,修行在個人。

Sư phụ: Ai có thể nói thế với chư vị? Chư vị có quyết tâm ấy không? Năng lực nhẫn chịu, mức độ nhẫn nại của chư vị cần phải chính chư vị quyết định; sư phụ lĩnh tiến môn, tu hành tại cá nhân137.

弟子:白天守住了心性的某些方面,可夢裏頭沒做到?

Đệ tử: Ban ngày có thể giữ vững phương diện tâm tính nào đó, nhưng trong mơ không làm được?

師:白天,明明白白的守心性那當然是很容易,考驗你的這個心性修的紮不紮實、守的紮不紮實。在你睡覺中,或在定的很深的定力當中去考驗你,那是最準的,看你紮不紮實。誰都會出現這個問題,守不住那就說明還不太紮實。

Sư phụ: Ban ngày, hết sức minh bạch mà giữ tâm tính đó đương nhiên là rất dễ, khảo nghiệm tâm tính của chư vị tu được chắc chắn không, giữ được vững vàng không. Khi chư vị đang ngủ, hoặc trong định với định lực rất sâu mà khảo nghiệm chư vị, đó là chuẩn nhất, xem chư vị vững chắc không. Ai cũng sẽ xuất hiện vấn đề này, giữ không vững thì thuyết minh rằng vẫn chưa chắc chắn lắm.

弟子:有附體的人來學法輪大法是否附體就被殺死?

Đệ tử: Người có phụ thể tới học Pháp Luân Đại Pháp thì có phải là phụ thể sẽ bị giết chết?

師:我們這個法不准這些動物來聽,它不敢進場,進來我們就要處理的。我們都是第三天徹底給學員清理身體。

Sư phụ: Pháp này của chúng ta không cho phép những thứ động vật này tới nghe, nó không dám vào, vào đây thì chúng tôi sẽ phải xử lý. Chúng tôi đều triệt để thanh lý thân thể cho học viên vào ngày thứ ba.

弟子:煉功入靜後看到一些動物向自己靠近或在一邊觀望?

Đệ tử: Sau khi luyện công nhập tĩnh nhìn thấy một số động vật lại gần mình hoặc ở một bên quan sát?

師:你就不要管它。它要到你身邊來,你就喊一喊老師的名。它是好奇想看一看也不用理它。不准它靠近的。

Sư phụ: Chư vị không cần quản nó. Nếu nó tới bên thân chư vị, thì chư vị gọi tên của Thầy. Nó là hiếu kỳ muốn xem xem thì mặc kệ nó. Không cho phép nó lại gần.

弟子:在煉第五套功法柱狀加持時兩掌之間有股氣流很強?

Đệ tử: Khi luyện bài công pháp thứ năm gia trì hình trụ giữa hai lòng bàn tay có dòng khí rất mạnh?

師:加持是加持那種能量團,就是各種功能,它大多數是球形、球狀的功能。這類功能是最多的,那個功能上萬還不止。掌心相對這樣是加持柱狀的,打出像激光一樣的,甚麼掌手雷的。手中間就是有股氣流很強烈的,有的人敏感,有的人不敏感。

Sư phụ: Gia trì là gia trì đoàn năng lượng đó, tức là các chủng công năng, chúng đa số là công năng hình cầu, dạng cầu. Loại công năng này là nhiều nhất, công năng đó hàng nghìn hàng vạn [loại] không hết. Lòng bàn tay đối nhau như vậy là gia trì [công năng] dạng [hình] trụ, đả xuất ra giống như laser, nào là chưởng thủ lôi. Giữa bàn tay sẽ có luồng khí rất mạnh mẽ; có người mẫn cảm, có người không mẫn cảm.

弟子:您所說的副意識是否是平常所說的靈魂?

Đệ tử: ‘Phó ý thức’ mà Ngài nói phải chăng là ‘linh hồn’ mà bình thường vẫn nói?

師:不要用過去的那種名詞來往這裏套,我是結合著現在人體科學和現在這個科學在講這個東西,講的再明白不過了。甚麼三魂七魄呀,或者是如何如何,很籠統的。你的五臟六腑都是你這個本人的形像;你的身體的每個細胞都是你本人的形像;你的每個功的微粒都是你本人的形像。他說的甚麼三魂七魄指的是甚麼,很籠統的。而且你有你的主元神、副元神。我剛才講的可不是甚麼迷信。我們現在科學就已經認識到這個問題了。小白鼠切片,把它的細胞,切下來的一塊細胞,用甚麼傳導,離遠距離的上千里的接收到之後,細胞顯現的圖象就是那個小白鼠的形象,一個細胞。這不是我講的玄而又玄的,現在科技發展到今天有許多你認為是迷信的東西,現在都被證實了是科學。科學沒有發展到那一步或者是我們認識到而沒有普及開來的東西,不見得它不存在的。

Sư phụ: Không được dùng loại danh từ quá khứ đó mà đưa vào đây, tôi là kết hợp khoa học nhân thể hiện nay và khoa học hiện nay mà giảng những điều này, giảng tới mức không thể rõ ràng hơn. Nào là ba hồn bảy phách, hoặc thế nào thế nào, rất chung chung. Lục phủ ngũ tạng của chư vị đều là hình tượng của bản thân chư vị; từng tế bào trên thân thể chư vị đều là hình tượng của bản thân chư vị; từng vi lạp của công của chư vị đều là hình tượng của bản thân của chư vị. Ba hồn bảy phách nào đó mà họ nói là chỉ về thứ gì, rất chung chung. Hơn nữa chư vị có chủ nguyên thần, phó nguyên thần của chư vị. Điều tôi vừa giảng cũng không phải là mê tín nào cả. Khoa học hiện nay của chúng ta đã nhận thức được vấn đề đó rồi. Cắt lớp chuột bạch con, lấy tế bào của nó, cắt ra một miếng tế bào, dùng nào là truyền dẫn, sau khi tiếp thu được từ khoảng cách xa xôi hàng nghìn dặm138, hình ảnh của tế bào hiển hiện ra chính là hình tượng của chuột bạch con đó, một tế bào. Đó không phải là tôi giảng huyền hoặc gì, hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển tới ngày nay có rất nhiều thứ chư vị cho rằng là mê tín, thì hiện nay đều đã được chứng thực là khoa học. Khoa học chưa phát triển tới bước đó hoặc là thứ chúng ta nhận thức được rồi nhưng chưa được phổ cập ra, thì không nhất định là chúng không tồn tại.

弟子:在您講課中看到前面一片黃色菊花代表甚麼意思?

Đệ tử: Khi Ngài giảng bài thấy phía trước có một mảng hoa cúc màu vàng là đại biểu ý tứ gì?

師:你看的是一團一團的黃光,而不是菊花。那個黃光裏邊有奧妙,咱們這個學員根基很不錯的。

Sư phụ: Điều chư vị nhìn thấy là từng đoàn từng đoàn ánh sáng màu vàng, chứ không phải hoa cúc. Bên trong ánh sáng màu vàng đó có sự ảo diệu, học viên này của chúng ta căn cơ rất khá.

弟子:我是一個科技工作者千里有緣來聽您傳授法輪大法,在幾次的聽課中我都看到了您的法身,心裏很高興,但一會兒又沒有了,是否是歡喜心的結果?

Đệ tử: Con là một người công tác khoa học kỹ thuật từ nghìn dặm hữu duyên tới đây nghe Ngài truyền thụ Pháp Luân Đại Pháp, trong mấy lần nghe giảng con đều nhìn thấy Pháp thân của Ngài, trong tâm thật cao hứng, nhưng thoáng cái lại không còn nữa, có phải là kết quả của tâm hoan hỷ?

師:不是的。很多人恍恍惚惚的無意中都看到了一些個景象,為甚麼又看不見了呢?因為你看到的時候,你思想一意識到我看到了,我想仔細看一下,就沒了。你一想仔細看就是動了眼睛了,因為你已經習慣於用眼睛看東西了。你無意識下用天目看東西時睜眼和閉眼是一樣的。有人習慣於閉眼看,有人習慣於睜眼看,所以你想要仔細看一看眼睛動了。你一動眼睛就又走了視神經而沒有走這條通道,所以你就看不見了,就是你現在還不會用的。

Sư phụ: Không phải. Rất nhiều người lúc mơ mơ màng màng vô tình thấy một số cảnh tượng, vì sao lại không nhìn thấy nữa? Vì khi chư vị nhìn thấy, tư tưởng chư vị hễ ý thức được là tôi thấy rồi, tôi muốn nhìn kỹ một chút, liền biến mất. Hễ chư vị muốn nhìn kỹ thì chính là đã động tới con mắt, vì chư vị quen dùng mắt [thịt này] nhìn các thứ. Khi chư vị dùng thiên mục nhìn các thứ một cách vô ý thức thì mở mắt hay nhắm mắt cũng như nhau. Có người quen nhắm mắt mà nhìn, có người quen mở mắt mà nhìn, cho nên chư vị muốn nhìn kỹ một chút thì con mắt đã động rồi. Chư vị hễ động con mắt thì lại chạy theo dây thần kinh chứ không chạy theo đường thông đạo này, cho nên chư vị lại không nhìn thấy, nghĩa là hiện nay chư vị vẫn chưa biết dùng.

弟子:不同的人是不是只能修到不同的層次?

Đệ tử: Người khác nhau phải chăng chỉ có thể tu tới tầng thứ khác nhau?

師:當然這也不是絕對的。我跟大家講了,他有個忍的問題,這不是絕對的。

Sư phụ: Đương nhiên điều này cũng không tuyệt đối. Tôi nói với mọi người rồi, họ có vấn đề Nhẫn, đó không phải điều tuyệt đối.

弟子:是否可以在海外雜誌上刊登、宣傳老師法輪大法?

Đệ tử: Có thể đăng, tuyên truyền Pháp Luân Đại Pháp của Thầy trên tạp chí hải ngoại không?

師:洪揚法輪大法,幾年來我沒有主動做這樣的事,但是都是學員主動做的。我們連寫稿的人好像都很少,報紙上都很少登。我們學習班辦的這麼大,都是大家親身受益了,感覺法輪大法好才來的。今天參加一個人,下一次就是一家人,再下一次就是連親朋好友都帶來,都是這樣多起來的。大家自己覺的好,我說這個說服力最強,要比那宣傳還要好。當然宣傳也是必不可少的,過去很少有人幫我們做這件事情。當然主動做也是我們學員自己做的,可以做的。

Sư phụ: Hồng dương Pháp Luân Đại Pháp, mấy năm nay tôi không có chủ động làm việc như vậy, nhưng đều là học viên chủ động làm. Chúng ta ngay cả người viết bài dường như cũng rất ít, trên báo chí cũng rất ít đăng. Lớp học của chúng ta tổ chức lớn ngần này, đều là mọi người đã tự thân thọ ích, cảm thấy Pháp Luân Đại Pháp tốt thì mới tới. Hôm nay tham gia một người, lần sau thì là một người nhà, tiếp lần sau nữa thì ngay cả họ hàng thân thích cũng dẫn tới, đều là như vậy mà bắt đầu đông lên. Bản thân mọi người cảm thấy tốt, tôi nói rằng điều đó có sức thuyết phục mạnh nhất, còn tốt hơn cả tuyên truyền kia. Đương nhiên tuyên truyền cũng là ắt không thể thiếu, trước kia có rất ít người giúp chúng ta làm việc này. Đương nhiên chủ động làm cũng là học viên của chúng ta tự mình làm, có thể làm.

弟子:如果我家裏養狗能不能在家裏煉功?

Đệ tử: Nếu trong nhà con nuôi chó thì có thể luyện công trong nhà không?

師:這些東西,很容易得靈氣。得了靈氣它就要害人。佛教過去有句話,叫不殺不養。這個事也別看絕對了,就是我們能夠怎麼樣把它處理好了就行了。

Sư phụ: Những thứ này, rất dễ đắc linh khí. Đắc được linh khí thì chúng sẽ hại người. Phật giáo quá khứ có câu, gọi là ‘bất sát bất dưỡng’. Chuyện này cũng đừng xem một cách tuyệt đối, tức là chúng ta có thể xử lý nó cho tốt như thế nào là được rồi.

弟子:這幾天無論我走到哪裏都感覺到法輪大法的音樂聲?

Đệ tử: Mấy ngày nay dù con đi tới đâu cũng đều cảm thấy tiếng âm nhạc của Pháp Luân Đại Pháp?

師:那很好,這叫天耳通。天上也在聽這煉功音樂。

Sư phụ: Như vậy rất tốt, đây gọi là thiên nhĩ thông. Trên trời cũng đang nghe âm nhạc luyện công này.

弟子:不能在資料彙編上劃線和註解嗎?

Đệ tử: Không thể vẽ vạch và chú thích vào tập tài liệu phải không?

師:有些我寫的東西或者我說的,大家別往上劃。特別是《轉法輪》那本書,我們好多開了天目的人看,說冒著金光,每個字都是我的法身。人是有業力的,沒修出世間法的弟子身體也是不純淨的,你上去劃那一筆黑乎乎的,因為你的身體還沒有達到高度淨化的。每一筆都是你自己的形像,同時帶有業力。

Sư phụ: Có những gì tôi viết hoặc là tôi nói, mọi người đừng vạch lên. Đặc biệt là cuốn sách «Chuyển Pháp Luân», chúng ta có rất nhiều người đã khai thiên mục nhìn thấy, nói rằng tỏa ra ánh vàng kim, từng chữ đều là Pháp thân của tôi. Con người là có nghiệp lực, thân thể của những đệ tử chưa tu xuất thế gian Pháp cũng không thuần tịnh, chư vị vạch lên một nét bút đen thui đó, bởi vì thân thể của chư vị còn chưa đạt được tịnh hóa cao độ. Từng nét bút đều là hình tượng của bản thân chư vị, đồng thời còn mang theo nghiệp lực.

弟子:我是一名軍人,有時出差旅途一兩個星期不能煉功,會不會把法輪收回去?

Đệ tử: Con là một quân nhân, đôi khi trên đường công tác một hai tuần không thể luyện công, thì có thu hồi lại Pháp Luân không?

師:這不會的。那是因為你的工作。這個修煉,修才是第一位的、最主要的。說你這個人是個法輪大法修煉的人,有嚴格的心性要求自己,平時我們做的很好,因為工作外出一段時間,你的法輪,你的功,不但不會減弱還會提高的。為甚麼哪?因為我講了,真正決定你層次高低的功是修出來的,而不是煉出來的。我們通過動作手法去煉,只不過是把那個現有的東西加強,加持他。我們以前也有不少人出差了,一出差半個月,回來一看這功還長了。說我走到哪都是個好人,都在用這個法來要求自己。回來後多煉功補上就是了。

Sư phụ: Điều này thì không. Đó là vì công tác của chư vị. Tu luyện này, tu mới là thứ nhất, là chủ yếu nhất. Chẳng hạn chư vị là người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, có yêu cầu tâm tính bản thân một cách nghiêm khắc, bình thường chúng ta làm rất tốt, bởi vì công tác phải đi công tác một khoảng thời gian, Pháp Luân của chư vị, công của chư vị, không những sẽ không yếu đi mà còn đề cao lên. Vì sao? Bởi vì tôi đã giảng, công thực sự quyết định tầng thứ cao thấp của chư vị là tu mà ra, chứ không phải luyện mà ra. Chúng ta thông qua thủ pháp động tác mà luyện, chỉ bất quá là gia cường thứ hiện có đó, gia trì chúng. Trước kia chúng ta cũng có không ít người đi công tác, hễ đi công tác là nửa tháng, trở về nhìn một cái thì công này lại còn tăng. Nói rằng tôi đi tới đâu cũng là một người tốt, đều dùng Pháp này để yêu cầu bản thân. Sau khi trở về luyện công nhiều hơn bổ sung lại là được.

弟子:參加過戰爭的人能不能修煉?

Đệ tử: Những người từng tham gia chiến tranh có thể tu luyện không?

師:這裏邊提這樣一個問題,過去宗教中講,殺生之後特別是傷了人命之後很難修煉的。有一些個戰爭年代過來的一些人,還有一些個上過前線的,怎麼對待這個問題?我告訴大家,我們講的去人執著心,都是人發自自己主觀願望,自私的,在常人社會中執著心造成的殺生。像戰爭這類情況都是屬於天象的變化、社會的變化帶來的。你只不過是天象的變化、社會變化運動中的一份子,要沒有這個份子的作用,還不能構成這種天象的變化。所以這個問題大家要把它分開,這是兩回事情。

Sư phụ: Tại đây có một vấn đề thế này, trong tôn giáo quá khứ giảng, sau khi sát sinh đặc biệt là sau khi làm tổn hại mạng người thì rất khó tu luyện. Một số người từng trải qua những niên đại chiến tranh, còn một số người từng ra tiền tuyến, đối đãi với vấn đề này như thế nào? Tôi bảo mọi người này, điều chúng ta giảng là trừ bỏ tâm chấp trước của con người, đều là [do] người ta xuất phát từ nguyện vọng chủ quan của mình, là tự tư, tâm chấp trước trong xã hội người thường mà tạo thành việc sát sinh. [Còn] như tình huống chiến tranh đều thuộc về biến hóa của thiên tượng, biến hóa của xã hội mang tới. Chư vị chỉ bất quá là một phần tử trong vận động biến hóa của thiên tượng, biến hóa của xã hội; nếu không có tác dụng của phần tử ấy, thì cũng không thể cấu thành loại biến hóa này của thiên tượng. Cho nên vấn đề này mọi người phải phân tách nó ra, đó là hai chuyện khác nhau.

弟子:聽說神話小說《西遊記》是一本修煉的書?

Đệ tử: Nghe nói tiểu thuyết thần thoại «Tây Du Ký» là một cuốn sách tu luyện?

師:倒不是甚麼修煉的書,它寫了一個很生動的修煉過程。這個故事講九九八十一難,遇到很多魔難,魔難的形態不一樣。他就是那種形態魔難的修煉,直到他最後差一難還不行,那一難還得補上,就是這個意思吧。

Sư phụ: Cũng không phải là sách tu luyện nào hết, nó viết về một quá trình tu luyện rất sinh động. Câu chuyện này nói về chín chín tám mươi mốt nạn, gặp phải rất nhiều ma nạn, hình thái của ma nạn là khác nhau. Họ chính là tu luyện qua ma nạn các loại hình thái, mãi cho tới lúc cuối cùng họ chỉ thiếu một nạn cũng không được, một nạn đó còn phải bổ sung vào, chính là ý này.

弟子:男的學盤腿是不是需要左腿先盤、右腿後盤?

Đệ tử: Người nam học xếp bằng phải chăng cần phải xếp chân trái lên trước, chân phải lên sau không?

師:男的單盤左腿在上右腿在下;女的是右腿在上左腿在下。雙盤就是從外面把底下那條腿搬上來就是雙盤。為甚麼要男的左腿在上女的右腿在上呢?結印也是一樣,因為男的是屬於純陽之體;女的是屬於純陰之體。煉功要講陰陽平衡的,抑制你的純陰或者純陽,增強你的陰和陽,使陰陽平衡。說你是女的有利於發揮你的陽抑制你的陰,它有這樣的一個作用。

Sư phụ: Người nam đơn bàn chân trái ở trên, chân phải ở dưới; người nữ chân phải ở trên, chân trái ở dưới. Song bàn chính là từ mặt ngoài lấy chân ở phía dưới xếp lên trên thì chính là song bàn. Vì sao phải là chân trái của nam ở trên chân phải của nữ ở trên? Kết ấn cũng vậy, bởi vì nam thuộc về thể thuần dương; nữ thuộc về thể thuần âm. Luyện công phải chú trọng cân bằng âm dương, ức chế thuần âm hoặc thuần dương của chư vị, tăng cường âm và dương của chư vị, khiến âm dương cân bằng. Chẳng hạn chư vị là nữ có lợi cho việc phát huy [phần] dương của chư vị ức chế [phần] âm của chư vị, nó có một tác dụng như vậy.

弟子:聽您講法錄音帶,有天早上我躺在床上沒睜眼聽見有人在我床邊說話,忽覺的渾身好沉不能動,接著我的顎骨被人用力的擠壓,起來發現原來閉不緊的嘴巴自然的合上了,後來別人見了也說顎骨低了?

Đệ tử: Nghe băng ghi âm giảng Pháp của Ngài, một hôm buổi sáng con nằm trên giường không mở mắt thì nghe thấy có người nói chuyện cạnh giường con, đột nhiên cảm thấy toàn thân nặng trĩu không thể cử động, tiếp đó xương hàm của con bị người ta dùng lực đè xuống, tỉnh dậy thì phát hiện thấy hóa ra miệng vốn ngậm không chặt tự nhiên lại khép lại được, sau đó người khác nhìn thấy cũng nói rằng xương hàm đã thấp đi?

師:這是幾個法身在給你調整身體。

Sư phụ: Đó là mấy Pháp thân đang điều chỉnh thân thể cho chư vị.

弟子:每當我對著鏡子煉功時,閉著眼睛經常無意識看到鏡子中自己的影子和黑白照片底版一樣?

Đệ tử: Mỗi khi con đứng trước gương luyện công, nhắm mắt thường nhìn thấy bóng của mình trong gương một cách vô ý thức giống như âm bản của ảnh đen trắng?

師:天目剛開的時候看東西是黑白的,看白的是黑的,看黑的是白的。

Sư phụ: Thiên mục khi mới khai mở thì nhìn mọi thứ đều là đen trắng, nhìn trắng thì thành đen, nhìn đen thì thành trắng.

弟子:煉靜功盤腿難忍但又不想拿下來,想老師的話是加意念嗎?

Đệ tử: Luyện tĩnh công xếp bằng khó nhẫn nhưng lại không muốn bỏ xuống, nhớ tới lời của Thầy có phải là thêm vào ý niệm không?

師:那不是加意念。想起老師的話增強我們的忍,要堅持,那不算你甚麼意念的,是精進的一個方面。

Sư phụ: Đó không phải là thêm ý niệm. Nhớ lại lời của Thầy tăng cường Nhẫn của chúng ta, muốn kiên trì, đó không được tính là ý niệm gì cả, là một phương diện của tinh tấn.

弟子:在煉功點上老學員說我身上有東西?

Đệ tử: Tại điểm luyện công học viên cũ nói rằng trên thân con có thứ gì đó?

師:不要聽人家亂說。很多學員天目開了之後,自心出幻覺,而且他把附體和前生帶來的形象分不清。但是那個形象也不一定就是你的主元神,還可能是副元神的形象,所以他根本分不清這些事情。不要聽有些學員亂說。分不清亂說就是亂法。

Sư phụ: Không được nghe người ta nói lung tung. Có rất nhiều học viên sau khi khai thiên mục, tự tâm sinh ra ảo giác, hơn nữa họ còn không phân rõ phụ thể và hình tượng mang theo từ đời trước. Nhưng hình tượng đó cũng không nhất định là chủ nguyên thần của chư vị, còn có thể là hình tượng của phó nguyên thần, cho nên căn bản họ không phân rõ những sự việc này. Không được nghe một số học viên nói lung tung. Phân biệt không rõ mà nói lung tung thì chính là loạn Pháp.

弟子:我有時遇到解不開的難題時對著老師的照片看,這時老師的照片就會閃動,法輪周圍也會閃動,每當這時我便會流淚,心情也會好起來?

Đệ tử: Đôi khi con gặp phải vấn đề khó không thể giải khai con nhìn vào ảnh của Thầy, lúc này ảnh của Thầy sẽ lấp lánh rung động, xung quanh Pháp Luân cũng lấp lánh rung động, mỗi lúc đó con lại chảy nước mắt, tâm trạng cũng trở nên tốt hơn?

師:這個是一種現象,真修弟子各種現象都會遇的到的。鼓勵你精進。

Sư phụ: Đó là một loại hiện tượng, đệ tử chân tu thì các loại hiện tượng đều sẽ gặp. Khích lệ chư vị tinh tấn.

弟子:我們是否可以用真、善、忍的標準來檢查任何一種功法是正法與邪法?

Đệ tử: Chúng con có thể dùng tiêu chuẩn Chân-Thiện-Nhẫn để kiểm tra bất kỳ loại công pháp nào là chính Pháp hay tà pháp không?

師:那當然是啊。宇宙的特性就是真、善、忍,不是我們功專有的。這就是宇宙的特性,我們是按照真、善、忍去修的。不符合真、善、忍特性,不符合宇宙特性的,那都是邪的。

Sư phụ: Đương nhiên là [vậy]. Đặc tính của vũ trụ chính là Chân-Thiện-Nhẫn, không phải thứ riêng có của công [pháp] chúng ta. Đây chính là đặc tính của vũ trụ, chúng ta chiểu theo Chân-Thiện-Nhẫn mà tu. Không phù hợp với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn, không phù hợp với đặc tính của vũ trụ, thì đều là tà.

弟子:只有氣機,但我刻苦修煉要多長時間才能形成法輪?

Đệ tử: Chỉ có khí cơ, nhưng con phải khắc khổ tu luyện thời gian bao lâu thì mới có thể hình thành Pháp Luân?

師:那要看你自己能吃苦不能吃苦,下不下決心去修了。如果你真的下決心,橫下心修,你真行了,真知道以前自己的錯了,而且做的更好,我想說不定還給你個法輪,那都可能的。就是這些事情不是絕對的。

Sư phụ: Vậy phải xem bản thân chư vị có thể chịu khổ hay không thể chịu khổ, có hạ quyết tâm tu hay không. Nếu chư vị thực sự hạ quyết tâm, quyết tâm tu, chư vị thực sự đạt rồi, thực sự biết trước đây mình đã sai rồi, hơn nữa còn làm tốt hơn, thì tôi nghĩ rằng không chừng còn cấp Pháp Luân cho chư vị, điều đó đều có thể. Tức là những sự việc này không tuyệt đối.

弟子:在修煉的路上遇到過許多魔難,這樣的人經過努力是否都能修煉法輪大法?

Đệ tử: Trên con đường tu luyện đã từng gặp phải rất nhiều ma nạn, người như vậy thông qua nỗ lực thì đều có thể tu luyện Pháp Luân Đại Pháp không?

師:法輪大法只要你想修有緣份,誰都可以來修的。我們這裏強調不想修的,你就不要強拉他來,說人家不感興趣,不相信你非要說走吧,非要拉人學,我說這不行。

Sư phụ: Pháp Luân Đại Pháp chỉ cần chư vị muốn tu có duyên phận, [thì] ai cũng có thể đến tu. Tại đây chúng tôi nhấn mạnh [rằng người] không muốn tu, thì chư vị đừng cố kéo họ tới, chẳng hạn người ta không thấy hứng thú, không tin chư vị lại cứ khăng khăng nói rằng đi thôi, khăng khăng kéo người ta vào học, tôi nói như vậy không được.

弟子:附體跟本人二十八年,學法輪大法後至今未離開怎麼辦?能否修成正果?

Đệ tử: Phụ thể đã theo con 28 năm, sau khi học Pháp Luân Đại Pháp tới nay chưa rời khỏi thì làm thế nào? Có thể tu thành chính quả không?

師:跟了這麼長時間,你也不驅走它。你學法輪大法的目地是不是要驅它?就是為了來驅走它來學法輪大法,這是有求而學。這個法傳出來是叫人真正修煉的,連調整身體,給你去了病目地都是讓你修煉的。你說我就是來求治病來了,我們都不能給你做這些事情。我這不是講一般的氣功,都是更高層次上的東西。自己想一想自己如何對待,有些事情都是自己的問題。別說二十八年,二千八百年也是一瞬間的事。

Sư phụ: Theo một thời gian lâu như vậy, chư vị cũng không đuổi nó đi. Mục đích chư vị học Pháp Luân Đại Pháp phải chăng muốn đuổi nó đi? Chính là để đuổi nó mà tới học Pháp Luân Đại Pháp, đây là hữu cầu mà học. Pháp này truyền ra là để con người chân chính tu luyện, ngay cả điều chỉnh thân thể, trừ bệnh cho chư vị cũng có mục đích là để chư vị tu luyện. Chư vị nói tôi chính là tới cầu trị bệnh, [thì] chúng tôi đều không thể làm những việc này cho chư vị. Tôi đây không phải là giảng khí công thông thường, mà đều là những thứ trên tầng thứ cao hơn. Bản thân hãy thử nghĩ xem mình đối đãi như thế nào, một số việc đều là vấn đề của bản thân. Đừng nói là 28 năm, mà 2800 năm cũng chỉ là việc trong nháy mắt.

弟子:為甚麼平時對心性的事可以忍,到了睡夢中就忍不住了?

Đệ tử: Vì sao lúc bình thường những chuyện về tâm tính thì có thể Nhẫn, tới khi ngủ nằm mơ thì không Nhẫn được?

師:就是還不紮實,真正修煉是個非常嚴肅的事。你說我在常人中有意無意的,反正是隨隨便便的,那麼你睡夢就過不了關。

Sư phụ: Tức là vẫn chưa vững chắc, tu luyện chân chính là việc nghiêm túc phi thường. Chư vị nói trong người thường tôi vô ý hữu ý, dù sao cũng là tùy tiện thôi, vậy thì chư vị nằm mơ sẽ không thể vượt quan được.

弟子:主動關心幫助周圍的同事、朋友與老師講的無為?有無矛盾?

Đệ tử: Chủ động quan tâm giúp đỡ những đồng nghiệp, bạn bè xung quanh với vô vi mà Thầy giảng? Có mâu thuẫn hay không?

師:還是那句話,現在叫你放下所有的有為事是不可能的。你現在儘量自己去悟、自己去做,逐漸的很多事情會能夠都放的下,一點點來。幫助周圍人得法可是另外一回事了。

Sư phụ: Vẫn là câu nói đó, hiện tại bảo chư vị buông bỏ tất cả mọi việc hữu vi là điều không thể. Hiện tại chư vị cố gắng tự mình mà ngộ, tự mình mà làm, dần dần rất nhiều sự việc sẽ có thể buông bỏ được hết, từng chút một. Nhưng giúp đỡ những người xung quanh đắc Pháp lại là chuyện khác.

弟子:轉大法輪是甚麼意思?

Đệ tử: Chuyển Đại Pháp Luân có ý nghĩa gì?

師:那就是轉大的法輪。大到甚麼成度?反正他就是相當的大。我要在多大的天體中正法就轉多大的法輪。

Sư phụ: Đó chính là chuyển Pháp Luân lớn. Lớn tới mức độ nào? Dù sao Nó rất là lớn. Nếu tôi Chính Pháp tại thiên thể lớn ngần nào thì sẽ chuyển Pháp Luân lớn ngần ấy.

弟子:人家所說的陰陽眼看到鬼魂,這人是開了天目嗎?

Đệ tử: ‘Âm dương nhãn’ mà người ta vẫn nói nhìn thấy quỷ hồn139, người đó đã khai thiên mục phải không?

師:反正我告訴大家,你看到了常人看不到的東西,就是你天目看的。當然這個天目主通道在這裏,還有一般人在山根部位看的比較多。當然有個別人也能夠通過眼睛看的。

Sư phụ: Dù sao thì tôi bảo mọi người này, hễ chư vị nhìn thấy thứ mà người thường nhìn không thấy, thì là thiên mục của chư vị thấy. Đương nhiên đường thông chính của thiên mục này nằm tại đây, còn có người bình thường ở vị trí sơn căn mà nhìn cũng khá nhiều. Đương nhiên có những người cá biệt cũng có thể thông qua con mắt mà nhìn.

弟子:我打坐時有時上身往後仰、兩腿往起翹幾乎坐不住?

Đệ tử: Khi con ngồi đả tọa thân trên ngả về phía sau, hai chân vênh lên hầu như không thể ngồi vững được?

師:這就是你像我講的那個脈通,往後仰就是你身體前面通好了,後面沒通好就感覺到沉了。都通好了身體就往上拔,就有要起空的感覺。

Sư phụ: Đây chính là chư vị giống như thông mạch mà tôi giảng, ngả về phía sau chính là mặt trước của thân thể chư vị đã thông tốt, mặt sau chưa thông tốt thì sẽ cảm thấy trĩu xuống. Đều thông tốt rồi thì thân thể sẽ cất lên, sẽ có cảm giác sắp bay lên.

弟子:煉功要專一有個問題我不清楚,煉法輪大法的人可否還保持某些原有生活愛好?

Đệ tử: Luyện công phải chuyên nhất có một vấn đề con chưa rõ, người luyện Pháp Luân Đại Pháp có thể bảo trì một số sở thích sinh hoạt vốn có không?

師:你現在可以這樣做,說今天讓你七情六慾一下都放下了,你做的到嗎?根本就做不到的。因為有些在你的觀念上都已經形成自然狀態了,所以你都體悟、體察不到自己那個不好的心態了,就是說大家在修煉過程中,你要嚴格要求自己,慢慢的去掉各種執著心的,會慢慢提高上來,那時連你提的問題想起來你都會臉紅。

Sư phụ: Hiện tại chư vị có thể làm như vậy, nói rằng hôm nay khiến chư vị ngay lập tức buông bỏ hết thất tình lục dục140, chư vị có làm được không? Hoàn toàn không làm được. Bởi vì có một số trong quan niệm của chư vị đều đã hình thành trạng thái tự nhiên rồi, cho nên chư vị cũng không thể ngộ, thể nghiệm được cái tâm thái không tốt đó của mình; nghĩa là nói mọi người trong quá trình tu luyện, chư vị phải nghiêm khắc yêu cầu bản thân, dần dần loại bỏ đi các chủng tâm chấp trước, sẽ dần dần đề cao lên trên; lúc đó ngay cả nghĩ tới câu hỏi mà chư vị vừa nêu ra thì chư vị cũng sẽ đỏ mặt.

弟子:法輪大法曾在不同時期人類劫難來臨時拯救過人類嗎?

Đệ tử: Pháp Luân Đại Pháp từng cứu vớt nhân loại trong những thời kỳ khác nhau khi nhân loại gặp phải kiếp nạn phải không?

師:我講這麼個道理,說人類來到危險時期也好,或者是有劫難也好,我們雖然沒有講它,但是我們也看到了,人類不能夠道德這樣淪喪下去,淪喪下去當然是危險的。那麼我們今天做的這件事情,大家想一想,往高層次上傳功本來就是度人。甚麼叫拯救人類做好事啊?我在力所能及的做我的事。你問的事情太高,不能明示。

Sư phụ: Tôi giảng đạo lý thế này nhé, nói rằng nhân loại tới thời kỳ nguy hiểm cũng vậy, hoặc là có kiếp nạn cũng vậy, mặc dù chúng tôi không giảng về nó, nhưng chúng tôi cũng đã nhìn thấy, nhân loại không thể cứ để đạo đức trượt dốc mãi như thế này, trượt dốc tiếp nữa thì đương nhiên sẽ nguy hiểm. Vậy thì sự việc mà hôm nay chúng ta làm này, mọi người thử nghĩ xem, truyền công lên cao tầng vốn dĩ chính là ‘độ nhân’. Thế nào gọi là cứu vớt nhân loại làm việc tốt? Tôi cố gắng hết khả năng của mình làm việc của tôi. Sự việc chư vị hỏi cao quá, không thể chỉ rõ ra.

弟子:忍與好好先生區別之處在哪?

Đệ tử: Chỗ khác biệt giữa Nhẫn và người ba phải là ở đâu?

師:好好先生怎麼理解?你給他劃的標準是甚麼呢?說這個人在複雜的環境中,要是管一管誰都會被攻擊,看到都是這樣,也沒有辦法,不如委曲求全。作為一個常人,不想引火燒身,我想這個人還不一定是像你所說的那個好好先生。說有這個能力不去管,我說那才是好好先生。那麼我們講的這個忍,是忍你自己各種慾望和執著,少給你帶來不必要的煩惱,這也不是甚麼好好先生。

Sư phụ: ‘Người ba phải’ [là được] hiểu thế nào? Tiêu chuẩn mà chư vị vạch ra cho họ là gì? Chẳng hạn người kia trong hoàn cảnh phức tạp, hễ quản ai đó thì đều bị công kích, thấy được đều là vậy, cũng không có cách nào, chi bằng thỏa hiệp cầu toàn. Là một người thường, không muốn dẫn lửa đốt mình141, tôi nghĩ rằng người này cũng không nhất định là như người ba phải mà chư vị nói. Chẳng hạn có năng lực đó mà không quản, thì tôi nói rằng đó mới là người ba phải. Còn Nhẫn mà chúng tôi giảng, là Nhẫn các chủng dục vọng tâm chấp trước của bản thân chư vị, ít mang lại phiền não không cần thiết cho chư vị, đó cũng không phải là ba phải gì cả.

弟子:如遇到某些生命危險?

Đệ tử: Nếu gặp nguy hiểm nào đó tới tính mạng?

師:你要是真正修煉的人,在安排你今後的修煉道路時不給你安排這些東西。一切事情都有因緣關係,不是偶然存在的,不給你安排它,你就遇不到。它與你修煉有甚麼關係?與你修煉沒有關係的,我們儘量都不安排。真的把你殺了你還能修煉嗎?但是有一點,不能修煉的常人,或者他不努力的人,三天打魚兩天曬網的人,也不嚴格按照法要求自己的人,這樣的人還不是修煉人,那麼常人遇到啥他還會遇到啥,他就是常人。

Sư phụ: Nếu chư vị là người tu luyện chân chính, thì khi an bài con đường tu luyện cho chư vị sau này sẽ không an bài cho chư vị những thứ này. Hết thảy mọi chuyện đều có quan hệ nhân duyên, không phải tồn tại ngẫu nhiên; không an bài nó cho chư vị, chư vị sẽ không gặp phải. Nó có quan hệ gì với việc tu luyện của chư vị? Những thứ không có quan hệ với tu luyện của chư vị, chúng tôi đều gắng hết mức không an bài. Thực sự giết chư vị rồi thì chư vị còn có thể tu luyện không? Nhưng có một điểm, người thường mà không thể tu luyện, hoặc là họ là người không nỗ lực, người mà ba ngày đánh cá hai ngày phơi lưới, người mà cũng không nghiêm khắc chiểu theo Pháp yêu cầu bản thân, người như vậy thì cũng không phải là người tu luyện, vậy thì người thường gặp phải chuyện gì thì họ vẫn phải gặp phải chuyện đó thôi, họ chính là người thường.

弟子:心緒不寧的時候能否煉功?

Đệ tử: Khi tâm tình bất ổn thì có thể luyện công không?

師:心情不好的時候不能煉功。你也入不了靜,你在那呼呼生氣,你做到了真、善、忍那個忍嗎?你也沒有做到啊?那你煉他幹啥呀?是不是?忍不是生了氣才去忍,而是根本就不生氣。

Sư phụ: Khi tâm tình không tốt thì không được luyện công. Chư vị cũng không thể nhập tĩnh, chư vị ở đó giận sôi sùng sục, chư vị có làm được Nhẫn của Chân-Thiện-Nhẫn đó không? Chư vị cũng không làm được? Chư vị luyện Nó làm gì? Có phải vậy không? Nhẫn không phải là tức giận rồi thì mới nhẫn, mà là hoàn toàn không tức giận.

弟子:別人的思維進到我的頭腦中來使我不能入靜,甚至於睡覺也睡不好,我不知道這是不是好事?

Đệ tử: Tư duy của người khác tiến nhập vào đầu não con khiến con không thể nhập tĩnh, thậm chí ngủ cũng ngủ không ngon giấc, con không biết đây có phải là chuyện tốt hay không?

師:有一種功能,能夠知道別人的思想,也叫他心通。說你能知道別人的思想,本來是好事,但要把握好自己。現在人的腦子裏甚麼壞事都想,甚至不認識你,一見你面都不想你好事。所以你儘量不要管那些事情。就像我今天坐在這裏,我這麼苦口婆心的跟大家講,場裏發出甚麼想法的人都有,我根本就不去感受你的。

Sư phụ: Có một chủng công năng, có thể biết được tư tưởng của người khác, cũng gọi là ‘tha tâm thông’. Chẳng hạn chư vị có thể biết được tư tưởng của người khác, vốn dĩ là chuyện tốt, nhưng phải giữ vững được bản thân. Trong đầu não của con người hiện nay chuyện xấu nào cũng nghĩ tới, thậm chí không quen biết chư vị, vừa gặp mặt chư vị đã không nghĩ điều tốt về chư vị. Cho nên chư vị cố gắng mặc kệ những việc đó. Cũng như tôi hôm nay ngồi tại đây, tôi thật lòng kiên trì giảng cho mọi người đến thế, trong hội trường có những người phát xuất ra những tư tưởng gì cũng có, tôi hoàn toàn không đi cảm thụ những thứ đó của các vị.

弟子:本人在煉神通加持法時,有時有些甜的東西落到口中不知何物?

Đệ tử: Khi con đang luyện Thần Thông Gia Trì Pháp, đôi khi có một vài đồ ngọt rơi vào trong miệng không biết là vật gì?

師:那是你周天運轉的時候從脈裏流過來的東西,你感覺到的東西。不都這樣,每個人的狀態不一樣的。

Sư phụ: Đó chính là khi chu thiên của chư vị vận chuyển từ trong mạch sẽ chảy ra các thứ, [là] thứ mà chư vị cảm nhận được. Không phải đều như vậy, trạng thái của mỗi người là khác nhau.

弟子:閉上眼睛稍一入靜就像做夢一樣,大腦中出現一個比較固定的景或人,古代的現代的都有是不是幻覺?

Đệ tử: Nhắm mắt lại hễ hơi nhập tĩnh thì giống như nằm mơ, trong đại não xuất hiện một cảnh hoặc người khá cố định, cổ đại hay hiện đại đều có thì có phải là ảo giác không?

師:這也不是幻覺,就是你天目的原因造成的。

Sư phụ: Đó cũng không phải là ảo giác, chính là nguyên nhân thiên mục của chư vị tạo thành.

弟子:人的執著心是不是一種習慣思維?

Đệ tử: Tâm chấp trước của con người có phải là một kiểu tư duy [theo] thói quen?

師:對一般常人來說已經形成自然了。反正是張口就是個人的利益,腦袋一動就是個人的利益,都形成自然了。但是它不是先天來的,這是後天形成的,這種不好的東西多了,把自己逐漸變成一個複雜的思想。

Sư phụ: Đối với người thường bình thường mà nói thì đã hình thành tự nhiên rồi. Dẫu sao hễ mở miệng là lợi ích cá nhân, đầu óc hễ động thì lại là lợi ích cá nhân, đều đã hình thành tự nhiên rồi. Nhưng nó cũng không phải là thứ đến từ tiên thiên, đó là thứ hình thành hậu thiên, thứ không tốt này nhiều rồi, sẽ dần dần khiến mình biến thành một [người] tư tưởng phức tạp.

弟子:本人以前是練其它功法的,有一天在看《科學與氣功》雜誌時看到了老師的照片便產生了一種愉快的感覺,突然有某種東西從百會進入腦中,於是便轉學法輪大法?

Đệ tử: Trước đây con luyện công pháp khác, một hôm đang đọc tạp chí «Khoa học và khí công» nhìn thấy bức ảnh của Thầy liền sinh ra một cảm giác rất vui vẻ, đột nhiên có một thứ gì đó từ [huyệt] Bách Hội tiến nhập vào trong não, thế là liền chuyển sang học Pháp Luân Đại Pháp?

師:就是說你根基很好,有緣得大法。你一產生好感、想學,那麼就幫了你了,我的法輪到處都是。

Sư phụ: Chính là nói căn cơ của chư vị rất tốt, có duyên đắc Đại Pháp. Chư vị hễ có hảo cảm, muốn học, vậy thì liền giúp chư vị, Pháp Luân của tôi ở đâu cũng có.

弟子:法輪大法書籍和磁帶等基調為何為藍色?

Đệ tử: Màu nền của [bìa] sách vở và băng đĩa của Pháp Luân Đại Pháp vì sao đều là màu xanh lam?

師:這個倒沒甚麼特殊原因,因為用常人的眼睛去看宇宙,發現天空是深藍色的,藍藍的,所以我們就用這一層意思。因為本來法輪大法是按照宇宙的特性在煉,按照宇宙的演化原理在煉,是這麼大的東西。我們就表現這個宇宙的顏色這樣一個意思。但是又不是絕對的,因為這個顏色用人的肉眼看是這樣的,這個空間是這樣的,另外空間可不是這樣的;而且它還有其它顏色的變化。

Sư phụ: Điều này thì cũng không có nguyên nhân đặc thù gì, bởi vì dùng mắt của người thường mà nhìn vũ trụ, sẽ phát hiện bầu trời là màu lam thẫm, màu lam lam, cho nên chúng tôi bèn dùng tầng ý nghĩa đó. Bởi vì Pháp Luân Đại Pháp vốn là chiểu theo đặc tính của vũ trụ mà luyện, chiểu theo nguyên lý diễn hóa của vũ trụ mà luyện, là điều to lớn như thế. Chúng tôi bèn biểu hiện ý nghĩa về màu sắc của vũ trụ như vậy. Nhưng mà cũng không phải tuyệt đối, bởi vì màu sắc này dùng mắt thịt nhìn thì là như vậy, không gian này thì là như thế này, không gian khác lại không phải như thế; hơn nữa nó còn có sự biến hóa thành màu sắc khác.

弟子:在煉神通加持法結定印後,有時會重打一次開始煉功的手印或做一些個其它動作?

Đệ tử: Sau khi luyện Thần Thông Gia Trì Pháp kết ấn, đôi khi đả thủ ấn lại một lần như lúc bắt đầu luyện công hay làm một số động tác khác?

師:這就不對了。給你重打一次,那意思是你看看,這不是邪的,緊接著就給你來邪的。大家千萬記住了,你要自己明明白白的修煉。這話我說的都很重了,我帶著很強的功往你腦子裏打,而有的人他就是不行,他就放不下那點歡喜心。一來了一種甚麼機帶動他練,哎喲,歡喜心馬上出來,高興起來了,他就隨著練去了。那是你明明白白煉的嗎?是你主觀上要煉嗎?你給誰煉呢?誰煉功誰得功這問題多嚴重的問題呀!

Sư phụ: Như vậy thì không đúng. Đả lại một lần nữa cho chư vị, ý tứ là chư vị hãy nhìn xem, đó không phải là tà, ngay sau đó lại [có động tác khác thì là] mang thứ tà tới cho chư vị. Mọi người nhất định phải ghi nhớ, chư vị phải tự mình tu luyện một cách minh minh bạch bạch. Lời này tôi nói đều rất nặng, tôi mang theo công rất mạnh đánh vào trong não chư vị, thế mà có người họ đúng là không được, họ không thể buông bỏ chút tâm hoan hỷ đó. Hễ xuất hiện một loại cơ nào đó dẫn động họ luyện, ái chà, tâm hoan hỷ lập tức nổi lên, cao hứng lên, họ liền thuận theo đó mà luyện. Đó là chư vị luyện một cách minh minh bạch bạch sao? Là chư vị muốn luyện một cách chủ quan sao? Chư vị luyện cho ai? Ai luyện công người đó đắc công vấn đề này là vấn đề nghiêm trọng nhường nào!

弟子:老師強調集體煉功是不是為了避免邪魔干擾?

Đệ tử: Thầy nhấn mạnh luyện công tập thể có phải là vì để tránh tà ma can nhiễu?

師:不是的。你有我的法身,有法輪都在管你,就說這個意思。我們集體煉功是為了大家遇到甚麼問題可以互相切磋、互相探討,能夠更好的提高,是為了這個目地。

Sư phụ: Không phải. Chư vị có Pháp thân của tôi, có Pháp Luân đều đang quản chư vị, tức là nói ý tứ này. Chúng ta luyện công tập thể là để khi mọi người gặp phải vấn đề gì thì có thể chia sẻ với nhau, cùng nhau thảo luận, có thể đề cao tốt hơn nữa, là vì mục đích đó.

弟子:我平時在家煉功時心性較為平靜,也有少數不好信息干擾我的心。一年來一直盼望著見到你……老師我想我是不是有低靈附體現象?

Đệ tử: Bình thường khi luyện công ở nhà tâm tính con khá bình tĩnh, [nhưng mà] cũng có một ít những tín tức bất hảo can nhiễu tới tâm của con. Một năm nay vẫn luôn mong mỏi được gặp Thầy… Thưa Thầy con nghĩ phải chăng con có hiện tượng linh thể [tầng] thấp phụ thể?

師:煉法輪大法的那來的低靈附體呀?是生前的緣份所致。你不學大法,只想見我,這又是執著,所以拖了一年多還不悟。

Sư phụ: Luyện Pháp Luân Đại Pháp thì ở đâu ra linh thể [tầng] thấp phụ thể? Là duyên phận đời trước tạo nên. Chư vị không học Đại Pháp, chỉ muốn gặp tôi, đó lại là chấp trước, cho nên đã kéo dài hơn một năm mà vẫn không ngộ.

弟子:有時躺在床上突然全身麻痺像有人壓著手腳動彈不得?

Đệ tử: Đôi khi nằm trên giường đột nhiên toàn thân tê dại như có người đè chân tay xuống không thể nhúc nhích được?

師:我們好多人煉功會出現手好像不能動了,身體不能動了,這種現象那也是一個很複雜的好現象。人煉功會出現這種狀態,有一種功叫作定功,也能夠使自己感受到。所以我們有的人突然感覺這手動不了,這是一種現象。還有一種現象就是你的主元神離體了。還有師父在給你調整身體時有時也會把你定住。

Sư phụ: Chúng ta có khá nhiều người luyện công sẽ xuất hiện tay dường như không thể động đậy được, thân thể không thể động đậy được, hiện tượng này cũng là một hiện tượng tốt mà rất phức tạp. Người ta luyện công sẽ xuất hiện trạng thái này, có một loại công gọi là ‘định công’, cũng có thể khiến bản thân cảm thụ được. Cho nên chúng ta có người đột nhiên cảm thấy tay không thể động được, đó là một loại hiện tượng. Còn có một loại hiện tượng nữa chính là chủ nguyên thần đã ly thể. Còn có khi Sư phụ điều chỉnh thân thể cho chư vị có lúc cũng sẽ khiến chư vị định lại.

弟子:為了入靜念老師的名字?

Đệ tử: Vì để nhập tĩnh liền niệm tên của Thầy?

師:我講了靜不下的原因。念名字,能好一些,也只是起到一念代萬念的作用。要根本清靜得去人的執著心才能達到。

Sư phụ: Tôi đã giảng nguyên nhân nhập tĩnh không được. Niệm tên, có thể tốt hơn chút, cũng chỉ khởi được tác dụng một niệm thay vạn niệm. Muốn hoàn toàn thanh tịnh thì phải trừ bỏ tâm chấp trước của con người mới có thể đạt được.

弟子:老師講的真、善、忍的道理和我們天主教《聖經》中的道理異曲同工,這是我的感受,所以我一邊信奉我們的耶穌基督一邊做法輪大法?

Đệ tử: Đạo lý Chân-Thiện-Nhẫn mà Thầy giảng và đạo lý trong «Kinh Thánh» của Thiên Chúa giáo của chúng con là khác vỏ đồng chất142, đây là cảm thụ của con; cho nên con vừa tín phụng Jesus Christ của chúng con vừa làm [tập theo] Pháp Luân Đại Pháp?

師:允許你對大法有一個認識過程,以後你明白了再說。

Sư phụ: Cho phép chư vị có một quá trình nhận thức Đại Pháp, sau này chư vị minh bạch rồi hãy nói.

弟子:煉功中看到有甚麼傷害自己的時候喊老師的名字?

Đệ tử: Trong khi luyện công nhìn thấy có thứ gì đó làm hại bản thân mình thì gọi lớn tên của Thầy?

師:對,是這樣做。煉功中發現有甚麼可怕的你可以喊我的名字,不過你不喊它也傷不著你。喊名字本身也是對大法和師父信與不信的問題。其實法身一直在看著哪。

Sư phụ: Đúng vậy, là làm như vậy. Trong khi luyện công phát hiện có gì đó đáng sợ thì chư vị có thể kêu tên của tôi, chẳng qua chư vị không kêu thì nó cũng không làm hại chư vị được. Kêu tên bản thân nó cũng là vấn đề tin hay không tin vào Đại Pháp và Sư phụ. Kỳ thực Pháp thân vẫn luôn trông chừng.

弟子:我這次在廣州學習法輪大法後回去組織家鄉人一起學可以嗎?

Đệ tử: Lần này sau khi con học tập Pháp Luân Đại Pháp tại Quảng Châu trở về sẽ tổ chức những người ở quê nhà cùng nhau luyện có được không?

師:當然可以。你可以組織家鄉人學,如果學的人多了,掌握的好了,你還可以組織大家成立一個煉功點。洪法就是度人。

Sư phụ: Đương nhiên là có thể. Chư vị có thể tổ chức cho mọi người tại quê nhà học, nếu người học nhiều lên, nắm vững được tốt rồi, chư vị còn có thể tổ chức mọi người thành lập một điểm luyện công. Hồng Pháp chính là độ nhân.

結束語

Lời kết

這個法到今天為止我們就全部講完了。再多能不能講?分開去講還能講,我坐這裏講一年也能講,可是對我們以後修煉沒有好處。有許多問題是靠大家悟的,具體問題我也不能給你講的。具體問題我都給你講了,你去悟甚麼?你去做甚麼?你修煉的機會、環境都沒有了,條件都沒有了,所以大家碰到具體問題要遵照這個法去做,如何做好。我應該給大家講的基本上都講出來了,還可以參照其它學習班中我講課的錄音。這十堂課的時間,我給大家講了許多東西。在這個班上我對大家負不負責任,大家自有公論,這些問題我也不講了。我們學習班總的來看我認為是非常好的,有始有終,而且最後我們是圓滿把它結束了。

Pháp này đến hôm nay chúng tôi đã giảng xong toàn bộ rồi. Nhiều hơn nữa có thể giảng không? Phân ra mà giảng thì vẫn có thể giảng, tôi ngồi đây giảng một năm cũng có thể giảng, nhưng lại không có chỗ tốt cho tu luyện của chúng ta sau này. Có rất nhiều vấn đề phải dựa vào mọi người ngộ [ra], vấn đề cụ thể tôi cũng không thể giảng cho chư vị. Các vấn đề cụ thể tôi đều giảng cho chư vị rồi, thì chư vị còn ngộ gì nữa? Chư vị thực hiện gì nữa? Cơ hội, hoàn cảnh tu luyện của chư vị cũng không còn nữa, điều kiện cũng không còn nữa, cho nên mọi người gặp phải vấn đề cụ thể thì phải tuân theo Pháp này mà làm, làm thế nào cho tốt. Những điều tôi cần giảng cho mọi người thì về cơ bản đều đã giảng ra rồi, còn có thể tham khảo băng ghi âm tôi giảng bài ở những lớp học khác. Thời gian mười buổi học này, tôi đã giảng cho mọi người rất nhiều thứ. Tại lớp học này tôi có chịu trách nhiệm với mọi người hay không, mọi người tự có công luận, những vấn đề này tôi cũng không giảng nữa. Lớp học của chúng ta nhìn chung tôi cho rằng tốt đẹp phi thường, có thủy có chung, hơn nữa cuối cùng chúng ta đã kết thúc nó một cách viên mãn.

大家千里迢迢的從外地趕來的就有三千多人,最遠是黑龍江、新疆的,四、五千公里,八千多里地趕來的。路途很遠,大家吃了很多苦,甚至有些人費用不足,每天吃著方便麵,啃著餅乾的都有。為了甚麼呢?大家來這裏,就是為了學這個法,得這個法,是吧?所以大家也知道這個法的珍貴。當然在這十堂課當中,我儘量的滿足大家的要求,儘量提供大家方便,我也儘量給大家多講一些,把他講透,讓大家能夠理解,今後修煉有法可依。也就是說,在這十堂課當中大家在看我的,我在往高層次上帶大家也好,給大家淨化身體也好,那麼目地哪,是讓大家今後能夠修。也就是說,十堂課過去了以後就看大家的了。能不能修?你能不能行?那可就完全看你的。但是我們講,既然已經坐到這裏了,大家都是緣份。我想哪,不妨你回去就下一番功夫,看一看怎麼樣。能夠堅持的你就把他堅持住、修下去。付出多少會得到多少,這是保證的。

Mọi người xa xôi nghìn dặm từ nơi khác gấp rút tới đây đã tới hơn 3.000 người, xa nhất là Hắc Long Giang, Tân Cương, từ nơi cách bốn, năm nghìn km, hơn tám nghìn dặm vội đến đây. Đường xá xa xôi, mọi người đã chịu khổ rất nhiều, thậm chí có một số người chi phí không đủ, hàng ngày ăn mỳ ăn liền, gặm lương khô cũng có. Vì điều gì đây? Mọi người tới đây, chính là vì để học Pháp này, đắc Pháp này, phải không? Cho nên mọi người cũng biết Pháp này trân quý. Đương nhiên trong mười buổi học này, tôi đã cố gắng thỏa mãn yêu cầu của mọi người, cố gắng cung cấp thuận tiện cho mọi người, tôi cũng cố gắng giảng cho mọi người nhiều hơn, giảng Nó cho thấu, để mọi người có thể lý giải được, sau này tu luyện có Pháp có thể dựa vào. Cũng tức là, trong mười buổi học này mọi người nhìn vào tôi, tôi đang dẫn dắt mọi người lên cao tầng cũng vậy, tịnh hóa thân thể cho mọi người cũng vậy, vậy thì mục đích, là để sau này mọi người có thể tu luyện. Cũng tức là, sau khi mười buổi học qua đi rồi thì phải nhìn vào mọi người. Có thể tu hay không? Có thể được hay không? Vậy thì lại hoàn toàn phải trông ở chư vị. Nhưng mà chúng tôi giảng, đã là ngồi tại đây rồi, mọi người đều là duyên phận. Tôi nghĩ rằng, không ngại chư vị trở về hãy bỏ ra một phen công phu, xem xem sẽ thế nào. Có thể kiên trì thì chư vị hãy kiên trì vững, tiếp tục tu. Phó xuất bao nhiêu sẽ đắc được bấy nhiêu, đó là chắc chắn.

我們有許多經驗,很多學員有很多的自己修煉的親身體會,我想也足以給我們提供很多經驗和各種教訓。總而言之一句話吧,就是我們今天坐這裏不能夠白白的浪費這八天、十天或者是更長的時間。人要是真正得點真東西是很難的,一旦得到了要不珍惜他,將來後悔也來不及的。中國人有句話叫「過了這個村可沒有這個店」,是不是啊?就是我們通過講課大家可能都感受到了,沒有一個和尚或甚麼修道人像我這樣在講課。在我們國家,我說真正往高層次上帶人,講這些更高層次上的法,只有我一個人在做,那全世界也就是我在做。但是不管怎麼樣,目地就是能使大家在這樣一個歷史時期,這樣一個人心很複雜的環境中能得正法,能夠真正的得到提高,真正能夠得到修煉。你即使不修煉,你從這個學習班上下去,你也會做一個好人,我相信會這樣。

Chúng ta có rất nhiều kinh nghiệm, rất nhiều học viên có rất nhiều thể hội tu luyện tự thân của mình, tôi nghĩ cũng đủ để cung cấp cho chúng ta rất nhiều kinh nghiệm và các bài học. Tóm lại một câu, chính là hôm nay chúng ta ngồi đây không thể lãng phí tám ngày, mười ngày này hoặc thời gian lâu hơn một cách vô ích. Con người muốn thật sự đắc được điều chân chính quả là rất khó, hễ đắc được rồi mà không trân quý Nó, tương lai hối hận cũng không kịp. Người Trung Quốc có câu gọi là “Qua thôn này rồi thì không còn nhà trọ nữa”143, có phải vậy không? Nghĩa là chúng ta thông qua giảng bài mọi người có thể đều đã cảm thụ được, không có một hòa thượng hoặc một người tu Đạo nào giảng bài như tôi. Ở nước ta, tôi nói rằng chân chính dẫn dắt người lên cao tầng, giảng Pháp tại tầng thứ cao hơn này, chỉ có một mình cá nhân tôi đang làm, toàn thế giới cũng chỉ có tôi đang làm. Nhưng mà bất kể như thế nào, mục đích chính là có thể khiến mọi người trong một thời kỳ lịch sử như thế này, trong một hoàn cảnh nhân tâm rất phức tạp như thế này có thể đắc chính Pháp, có thể thật sự đạt được đề cao, thật sự có thể đạt được tu luyện. Dù cho chư vị không tu luyện, thì chư vị từ lớp học này trở đi, chư vị cũng biết làm một người tốt, tôi tin sẽ như vậy.

很多學員跟我講,老師我聽完您幾堂課之後,我自己的世界觀都發生了轉變。是這樣的,人們現在在這個大潮、大洪流當中把錯誤的當成正確的;把壞的當成好的;把惡當成善的,都形成了觀念了。人們都在這樣的洪流中去這樣執著、追求的時候,我一下子講了和你的觀念完全不同的認識的時候,有很多新學員,接受起來他也知道好,但是不一定一下子能夠理解,說的很清楚。你以後還要不斷的加強去學、去煉、去聽,你才能夠逐步的理解、加深認識的。所以我也希望大家不要聽完這課之後,就甚麼都忘了,要回去多看書、多聽錄音,才能夠使你不斷得到提高的。

Rất nhiều học viên nói với tôi, thưa Thầy sau khi con nghe xong mấy khóa giảng của Ngài, thế giới quan của con đều đã phát sinh chuyển biến. Là như vậy, hiện nay con người trong đại trào lưu, trong dòng chảy lớn đã coi thứ sai lầm thành thứ đúng đắn; coi thứ xấu thành thứ tốt; coi ác thành thiện, đều đã hình thành quan niệm. Khi người ta đều đang chấp trước, truy cầu trong dòng chảy lớn như vậy, khi tôi lập tức giảng những nhận thức hoàn toàn khác với quan niệm của chư vị, có rất nhiều học viên mới, bắt đầu tiếp thụ thì họ cũng biết là tốt, nhưng không nhất định là ngay lập tức có thể lý giải, nói một cách thật rõ ràng được. Sau này chư vị còn phải không ngừng tăng cường mà học, mà luyện, mà nghe, thì chư vị mới có thể từng bước lý giải, làm sâu thêm nhận thức. Cho nên tôi cũng hy vọng mọi người sau khi nghe xong bài giảng này thì đừng có thứ gì cũng quên hết, trở về phải đọc sách cho nhiều, nghe băng ghi âm cho nhiều, mới có thể khiến chư vị không ngừng đạt được đề cao.

這個不想多講了。最後送給大家一句話,你在今後修煉過程當中,如果你覺的很難忍的時候,如果你覺的不行的時候,你要想到我這句話,甚麼話哪?就是難行能行;難忍能忍。希望大家都能夠在大法修煉中圓滿功成!

Tôi không muốn giảng nhiều nữa. Cuối cùng tặng cho mọi người một câu, trong quá trình chư vị tu luyện về sau, nếu khi chư vị cảm thấy rất khó Nhẫn, nếu khi chư vị cảm thấy không thể được nữa, chư vị hãy nghĩ tới câu này của tôi, là câu gì? Chính là ‘Nan hành năng hành; nan Nhẫn năng Nhẫn’. Hy vọng mọi người đều có thể trong tu luyện Đại Pháp viên mãn công thành!


* * * * * * * * *

Ghi chú: (ghi chú của người dịch Trung-Việt, chỉ có tác dụng tham khảo)

1. thế phong nhật hạ: (thành ngữ) thói đời sa đọa, đạo đức thế gian trượt xuống hàng ngày. Tất cả các ghi chú đều của người dịch Trung-Việt, chỉ để tham khảo.

2. phương Tây họ là giảng ‘văn minh’: hiểu là người phương Tây họ có chủ trương và chú trọng vấn đề văn minh trong ứng xử; chữ “giảng” trong một số trường hợp còn mang nghĩa chủ trương, chú trọng.

3. vật cực tất phản: khi đến giới hạn cực độ rồi thì phản đảo trở lại.

4. Nó: Khi nói về Pháp Luân, Pháp, Đại Pháp, Lý của vũ trụ, đặc tính của vũ trụ, v.v. ở ngôi thứ ba, thì dùng từ “Nó” (viết hoa). Trong nhiều bài dịch khác, dùng từ “Ông” (viết hoa). Đây là hai lối dịch của cùng một từ tiếng Hán —他 (tha)— đại từ ngôi thứ ba chỉ người.

5. Khí công Nghiên cứu Hội, Nhân thể Nghiên cứu Hội: tạm dịch là Hội Nghiên cứu Khí công, Hội Nghiên cứu Nhân thể (thân thể người).

6. xuất sơn: hiểu là ra công chúng.

7. chúng gia chi sở trường: (trích lấy) sở trường của các gia [phái], (gom chọn) cái hay của mọi nhà.

8. phó xuất: chi trả, nỗ lực phí tổn bỏ ra.

9. nhục thân, nhục thể: thân thể xác thịt; ý là nói phần thân thể ở không gian này mà ta nhìn thấy được bằng cặp mắt thịt này.

10. tự ngã: cái tôi.

11. bất thất giả bất đắc: kẻ không mất thì không được, không mất thì không được; đắc tựu đắc thất: [muốn] được thì phải mất.

12. tu tại tiên luyện tại hậu: tu trước luyện sau, tu ở vị trí trước luyện ở vị trí sau (nghĩa bề mặt chữ).

13. tu tại tự kỷ, công tại sư phụ: tu là ở mình, [diễn hoá] công là do sư phụ làm (nghĩa bề mặt chữ).

14. an đỉnh thiết lư, thái dược, luyện đan: đặt đỉnh lập lò hái thuốc luyện đan. Đây là mượn cách nói của luyện ngoại đan (luyện chế thuốc đan dược bên ngoài) để miêu tả việc luyện nội đan (kết đan trong thân người luyện công).

15. chỉ thượng đàm binh: (thành ngữ) bàn việc quân sự trên giấy, lý luận suông, nói suông không thực thi có tính thực tế.

16. Chủ, Chúa: Đây là hai cách đọc của cùng một từ tiếng Hán. Thông thường được dịch là Chủ như trong bài này.

17. tổ thành: tổ hợp mà thành (nghĩa bề mặt chữ).

18. bất khả tư nghị: không thể nghĩ bàn, vượt khỏi nhận thức thông thường, rất khó tin.

19. hồng quan, vi quan: mức to lớn (hồng) hoặc nhỏ (vi); ví như so sánh tương đối thì không gian cấu thành từ phân tử được xem là hồng quan và không gian cấu thành từ cấp nguyên tử thì là vi quan.

20. lai vô tung khứ vô ảnh: tới lui không để lại dấu vết hình ảnh gì; tạm dịch là đến không ai hay đi không ai biết.

21. thuyết lai tựu lai, thuyết đáo tựu đáo, thuyết tẩu dã tựu tẩu: nói tới là tới, nói đến là đến, nói đi cũng là đi luôn; hiểu là di chuyển như ý cực kỳ chớp nhoáng.

22. tẩu đan đạo: đi theo con đường luyện đan.

23. bên này, bên kia: Trong một số ngữ cảnh, bên này là để nói về phía bên không gian vật chất mà người thường nhận thức, tức là không gian chúng ta đang sinh sống, và bên kia là để nói về phía bên không gian khác.

24. bách mạch: trăm mạch; là nói khái quát tất cả các đường kinh mạch trong thân thể, các mạch năng lượng (chứ không phải nói con số 100). Ví dụ: bách mạch giai thông (mở hết các kinh mạch), nhất mạch đới bách mạch (một đường mạch dẫn mở tất cả các phần còn lại).

25. bế quan: đóng cửa; có môn sử dụng hình thức bế quan tu luyện, là nói trong giai đoạn tu luyện đó thì người ta không giao tiếp với người khác (có thể vẫn liên hệ rất ít một vài người thân cận).

26. bản sự: tài năng, khả năng, năng lực; cũng có cách đọc là bổn sự.

27. hư: tạm hiểu là trái nghĩa với từ “thực:”; “hư” trong từ hư không, hư hư thực thực.

28. luân, luân tử, luân xa: bánh xe; Pháp Luân: hiểu nghĩa bề mặt là bánh xe Pháp.

29. ức: 100,000,000, trăm triệu.

30. chiều kim đồng hồ: về Pháp Luân, chiều kim đồng hồ có thể tạm hình dung bánh xe Pháp Luân tựa một chiếc đồng hồ treo trong bụng dưới nơi đan điền với mặt đồng hồ hướng ra ngoài trước bụng.

31. cung cấp nhĩ thân thể sở hữu đích bộ phận sở nhu yếu đích đông tây: cung cấp những gì cần thiết cho tất cả các bộ phận thân thể chư vị (giống cách hiểu bản dịch tiếng Anh); ngoài đó ra, câu này cũng có thể được diễn dịch là cung cấp những gì mà tất cả các bộ phận thân thể chư vị đòi hỏi.

32. cơ: chữ trong các từ cơ cấu, bộ cơ, bộ máy, toàn cơ (bộ cơ xoay chuyển), cơ chế, khí cơ; tùy cơ nhi hành: hành theo bộ cơ, là ý nói động tác thuận theo khí cơ mà di chuyển; gia cường giá cá cơ: gia cường bộ cơ này, làm bộ cơ vững mạnh lên.

33. Đại Đạo chí giản chí dị: Đại Đạo là giản dị nhất (nghĩa bề mặt chữ).

34. toàn cơ: bộ cơ xoay chuyển; toàn → chuyển động xoay vòng.

35. thời thần: thời thần, canh giờ; theo cách tính 12 giờ một ngày tý sửu dần… tuất hợi, một thời thần là bằng 2 tiếng đồng hồ. Trong bản dịch tiếng Anh, chỗ này dịch là “giờ thìn”. Giờ tý 11pm–1am, giờ thìn 7am–9am.

36. hỷ nộ ai lạc, thất tình: nói chung về các trạng thái tình cảm; thất tình → bảy thứ tình, hỷ (mừng) nộ (giận dữ) ái (yêu thương) (chán ghét) ai (buồn) lạc (vui) cụ (sợ hãi) (diễn nghĩa bề mặt chữ, liệt kê 7 thứ tình này có thể khác nhau).

37. tự tư, vị tư: ích kỷ, vì mình (“tư” như trong từ “tư tâm”); trái với vị tha; tha → người khác.

38. bổn môn, bổn phái: môn phái chúng ta; cũng có cách đọc là bản môn, bản phái.

39. trực chỉ nhân tâm: chỉ thẳng vào cái tâm của người ta.

40. ô yên chướng khí: khói đen khí nặng, chướng khí mù mịt, bầu không khí không lành mạnh.

41. tịnh thổ: miền đất thanh tịnh, cũng đọc là tịnh độ.

42. thập ác bất xá: mười tội ác không thể tha (nghĩa bề mặt chữ).

43. quán: rót vào, tưới vào, đổ vào.

44. chân thể: thân thể chân chính (diễn nghĩa bề mặt).

45. mệnh trung chú định: đã định trong mệnh là thế rồi.

46. cước thải lưỡng chỉ thuyền: (thành ngữ) chân đặt trên hai thuyền, ý là cùng muốn theo nhiều cái một lúc, bắt cá hai tay, cái gì cũng muốn.

47. chính thường: điều bình thường như lẽ ra nó phải thế; nhiều chỗ được dịch thành bình thường.

48. tùy kỳ tự nhiên: thuận theo tự nhiên, không truy cầu, không khiên cưỡng.

49. tâm: tim; can: gan; phế, phế tạng: phổi.

50. ma: chữ “ma” 魔 trong từ ma luyện được viết trong các kinh sách cũng là chữ “ma” trong các từ ma tính, ma nạn, ma quỷ, Ma Vương. Lưu ý là có một từ đồng âm ma luyện, với chữ “ma” 磨 viết khác (mài giũa, cọ sát, giày vò); khi đó ma luyện nghĩa là mài giũa rèn luyện, đây là nghĩa phổ biến được hiểu ở xã hội. Theo thiển ý của người dịch, thì “ma luyện tâm tính” được hiểu là rèn luyện tâm tính, mài luyện tâm tính (to temper one’s nature, theo cách dùng từ ngoài xã hội), với hòn đá mài là nhân tố “ma” (như trong từ ma tính, ma quỷ).

51. thể cảm: cảm ứng thân thể, nhạy cảm cảm nhận được người ở gần thế nào.

52. lưỡng: một số trường hợp, “hai” (lưỡng) có thể hiểu là vài, chứ không nhất định là số 2; tựa lối nói của người Việt “tôi có đôi lời muốn nói”. Tùy theo ngữ cảnh, người dịch sẽ dịch là vài hoặc hai. Nhưng có những trường hợp, như trường hợp này, thì rất khó đoán chắc là cái nào.

53. ly thể: rời khỏi thân thể.

54. bất sát bất dưỡng: không giết (sát) và cũng không nuôi (dưỡng).

55. điểm hóa: gợi ý cho bằng các cách khác nhau chứ không nói thẳng, là để người ta tự ngộ ra.

56. hiện thế hiện báo: có báo ứng ngay, quả báo nhãn tiền; hiện thế → đời này, hiện báo → báo ứng ngay hiện giờ.

57. trường luyện công: nơi luyện công tập thể, cũng gọi là điểm luyện công.

58. vạn vật giai hữu linh: vạn vật đều có linh tính, linh trí, linh thể.

59. hữu nghị: bè bạn (friendship).

60. soán môn: hiểu là thay đổi sang môn phái khác khác, soán cải đầu nhập sang môn hạ khác; soán → đổi, đuổi, hạ bệ, thay cái này bằng cái khác, ví dụ soán ngôi, soán vị.

61. bất nhị pháp môn: không hai pháp môn, chỉ chuyên nhất theo một môn.

62. văn thể: văn nghệ thể thao, các hoạt động giải trí nói chung.

63. nhất mạch đới bách mạch: một đường mạch dẫn mở tất cả các mạch còn lại.

64. Trung Y: Y học Trung Quốc.

65. nãi bạch thể: thân sữa trắng, thân trắng như sữa; nãi → sữa.

66. vạn sự giai hữu nhân duyên: mọi thứ đều có nhân duyên.

67. tưởng nhập phi phi: suy nghĩ vẩn vơ, viển vông, hão huyền, lung tung.

68. khởi nguyên: nguồn gốc, xuất xứ, khởi thủy.

69. tự lý hành gian: giữa những dòng chữ, nghĩa là ẩn đằng sau những chữ này, cái ý tứ, cái nhân tố kèm theo; tự → chữ, hành → dòng, hàng, → bên trong, gian → trung gian, ở giữa những cái đó.

70. vô tỷ: không gì sánh nổi, vô song; tỷ → so sánh.

71. cúng dường: từ này vốn cần đọc là “cung dưỡng”; cung trong các từ cung cấp, cung ứng; dưỡng trong các từ nuôi dưỡng, dung dưỡng.

72. Hằng hà sa số: số cát sông Hằng, ý nói nhiều không đếm xuể.

73. Pháp tượng: đây là nói về ảnh Sư phụ.

74. quan: cửa, cửa ải; có thể được hiểu là khảo nghiệm; một số huyệt vị cũng được gọi là quan, hoặc đại quan (cửa lớn); quá quanvượt quan, vượt qua khảo nghiệm.

75. ái nhân: người hôn phối, vợ hoặc chồng.

76. cường bạo: trong bản dịch dịch tiếng Anh, từ cường bạo này được dịch là cưỡng hiếp.

77. cổ huấn: răn dạy giáo huấn của người xưa.

78. dữ nhân vi thiện: đối đãi thiện với người khác.

79. Phật sự, Pháp sự: cách gọi để chỉ các việc làm như in kinh, quyên tiền xây chùa, v.v.; ý tứ là làm các việc của nhà Phật ở thế gian, hoằng dương Đạo Pháp ở cõi người.

80. đỉnh thiên lập địa: đầu đội trời chân đạp đất, sừng sững giữa trời đất.

81. Văn nghệ chi song: trong bài dịch là Cửa sổ văn nghệ.

82. tương đề bình luận: đặt hai cái ngang hàng nhau mà bình luận, mà đề cập đến.

83. Tạng Mật: Mật tông Tây Tạng.

84. tiểu tý: cẳng tay (đoạn từ cùi trỏ đến cổ tay); đại tý: bắp tay (đoạn từ vai đến cùi trỏ).

85. tùy cơ nhi động: thuận theo bộ cơ mà động.

86. liễu ám hoa minh hựu nhất thôn: ý là vẫn có lời giải dù tình huống rất bí rồi, đời người thăng trầm nhưng chớ vội nản chí; thành ngữ xuất xứ từ câu thơ: sơn trùng thủy phục nghi vô lộ, liễu ám hoa minh hựu nhất thôn → non nước chập trùng như hết lối, sáng tối liễu hoa lại thôn làng.

87. đại tự tại: rất ung dung tự tại; sinh mệnh đồng hóa với tiêu chuẩn tâm tính ở tầng thứ cao đó, Pháp lực to lớn, thì gọi là đại tự tại (diễn giải của người dịch).

88. bất lý tha: không lý gì tới nó, mặc kệ nó.

89. thiên lão nhị tha lão đại: tạm dịch là nhất nó nhì trời.

90. chủ tể: làm chủ; cũng đọc là chúa tể.

91. đới tu bất tu: lúc tu lúc không tu, không tu luyện thường hằng.

92. thỉnh thần dung dị tống thần nan: (thành ngữ) mời thần đến thì dễ tiễn thần đi thì khó.

93. hùng sư: sư tử đực.

94. độc tu: tu một mình đơn độc; đơn truyền: truyền dạy đơn lẻ (thường ngụ ý là chân truyền cho một đệ tử), trái với phổ truyền là truyền rộng cho nhiều người.

95. ý tưởng: chỗ này hiểu là suy nghĩ, ý nghĩ, nghĩ tưởng, đặt ý; không phải với nghĩa sáng kiến, ý kiến như tiếng Việt hiện đại.

96. tha tâm thông: [công năng] biết được suy nghĩ của người khác (diễn trên nghĩa bề mặt chữ); tha → người khác.

97. đả kỳ hiệu: nói lấy cờ hiệu hoặc vung cờ hiệu của ai đó nghĩa là nói mượn danh nghĩa của người kia mà làm ra gì đó (lối nói của người Hoa), kiểu người Việt nói mạo danh, khoác áo.

98. tiên thiên: cái có ban đầu là tiên thiên; trái với hậu thiên là về sau mới có. Trong bài này, có chỗ từ tiên thiên được dịch thành bẩm sinh.

99. Ki Tô giáo: có bản dịch là Cơ Đốc giáo, theo cách phiên âm qua tiếng Hán.

100. tĩnh chỉ: yên tĩnh dừng hẳn lại; tĩnh → yên lặng, không xao động, chỉ → dừng lại.

101. kim tân, ngọc dịch: nói về hai tuyến nước bọt dưới lưỡi (cách gọi của Đạo gia), trong luyện thân thì [khí của] nước bọt ở đó được tính là thuộc về dược vật, tựa như khí của tinh huyết cũng được tính là thuộc về dược vật, dược (thuốc) như trong câu an đỉnh thiết lư thái dược luyện đan mà Đạo gia đề cập đến. Nghĩa bề mặt: kim → vàng, ngọc → ngọc, tân dịch → nước bọt; như vậy hiểu nghĩa bề mặt thì kim tân ngọc dịch cũng là ví nước bọt như vàng ngọc.

102. vô khổng bất nhập: không lỗ hổng nào là không chui vào, len lỏi khắp nơi rồi; khổng → lỗ hổng.

103. tự nhiên nhi sinh, tự nhiên nhi diệt: tạm dịch là tự nhiên mà sinh, tự nhiên mà diệt.

104. thị trường: những ai mua bán một sản phẩm thì là thị trường của sản phẩm đó, những ai xem chương trình TV nào đó thì là thị trường của chương trình đó, những ai đọc một tờ báo hay cuốn sách hay website thì là thị trường của tờ báo, cuốn sách, website đó, những ai nghe người ta nói thuyết thì là thị trường của người đó.

105. tay: trong sách này, chúng tôi thống nhất cách dịch các bộ phận như sau: cánh tay, hoặc tay là chỉ ‘tay’ nói chung (thủ, arm); bắp tay là đoạn từ vai đến khuỷu (đại tý, upper arm); cẳng tay là đoạn từ cùi chỏ đến bàn tay (tiểu tý, forearm).

106. xích chanh hoàng lục thanh lam tử: đỏ cam vàng lục lam chàm tím (dịch theo cách nói của người Việt).

107. thấu minh thể: thể trong suốt.

108. La Hán sơ quả: có bài dịch là quả vị sơ cấp của La Hán; trong phần Giải đáp thắc mắc tại buổi giảng Pháp ở Tế Nam (cũng cuốn sách này), Sư phụ có dùng từ La Hán sơ cấp quả vị, và được dịch thành quả vị sơ cấp của La Hán.

109. nan nhẫn năng nhẫn, nan hành năng hành: khó nhẫn mà nhẫn được, khó làm mà làm được, [ai] nhẫn được điều khó nhẫn, [thì] làm được điều khó làm (diễn giải nghĩa bề mặt).

110. Phật môn: cửa Phật.

111. cân: có thể là 1 cân = 0,5kg.

112. Thiên thể: chữ thể này cũng là chữ thể trong các từ tùng quả thể, thân thể, nhân thể (thân thể người), Phật thể, sinh mệnh thể, v.v.

113. hảo sự: chuyện tốt.

114. tương phụ tương thành: cùng dựa vào nhau, cùng thành tựu cho nhau, cùng thuận theo nhau mà cải biến.

115. xích độ: cái thước.

116. bất thất bất đắc: không mất không được; bất thất giả bất đắc: kẻ không mất thì không được (diễn giải nghĩa bề mặt chữ).

117. tu bổ: sửa chữa.

118. thế duyên: duyên thế gian; đoạn tuyệt thế duyên → cắt đứt các duyên thế gian.

119. quỷ: người ở cõi âm được gọi là quỷ, người chết thành quỷ; ma là chỉ những gì thuộc về phụ diện, ví như chính diện thì có Pháp Vương, còn phụ diện thì có ma vương.

120. sinh mệnh: hiểu là đường đời (nghĩa trong ngữ cảnh này).

121. đoạn chương thủ nghĩa: lấy cái nghĩa khi đã tách khỏi ngữ cảnh (văn chương), trích dẫn ra ngoài ngữ cảnh có thể làm hiểu sai đi.

122. Yoga, Du già: nguyên đây là một thứ xuất xứ từ Ấn Độ; thời cận đại lưu truyền qua phương Tây và được tiếp thụ ở đó, do vậy mang tên Yoga (phiên âm qua tiếng phương Tây); thời cổ xưa lưu truyền qua Trung Quốc, và do vậy mang tên Du già (phiên âm qua tiếng Hán). Người dịch nói chung sẽ dịch là Yoga (từ này vốn phổ biến hơn nơi người Việt, và cũng là phiên âm sát hơn của tiếng Phạn), tuy nhiên, nếu tình huống là đang nói về Du già cổ xưa và thì có thể sẽ dịch là Du già; vì cái mà người ta gọi là Yoga hôm nay, những gì đã qua phương Tây ấy, đã không giống cái mà người Trung Quốc gọi là Du già cổ xưa.

123. Suy chuyển Pháp Luân: đẩy Pháp Luân xoay chuyển, động tác trong bài công pháp Quán thông Lưỡng cực pháp.

124. chuyên tu: hình thức tu luyện chuyên nghiệp. Ví như trường hợp hòa thượng xuất gia, sau đó tu luyện Pháp Luân Đại Pháp thì không lẽ lại hoàn tục, nên họ vẫn tiếp tục tu luyện Pháp Luân Đại Pháp theo hình thức chuyên tu, tức là họ vẫn là tăng nhân xuất gia; tuy nhiên việc tiếp tục ở lại chùa Phật giáo có thể sẽ là khó khăn cho họ (nhận thức cá nhân của người dịch).

125. vong ngã: quên bản thân mình; ngã → tôi (diễn trên nghĩa bề mặt chữ).

126. phụ đạo: hướng dẫn, dẫn dắt; hỗ trợ, trợ giúp.

127. đáp kiều: bắc cầu; thiệt đầu đáp kiều → đầu lưỡi bắc cầu.

128. thiên sai: lệch lạc, [luyện công] xảy ra vấn đề.

129. tịnh thổ: (i) miền đất thanh tịnh, ngụ ý đạo đức thế gian rất tốt, lòng người thanh tịnh; (ii) Tịnh Độ, thế giới thiên quốc mà Phật giáo nói đến. Theo thiển ý của dịch giả, Sư phụ trả lời cũng là theo hai nghĩa của từ này.

130. tam thiên đả ngư lưỡng thiên sái võng: (thành ngữ) ba ngày đánh cá hai ngày phơi lưới, làm việc biếng nhác không cần cù chăm chỉ, hôm làm hôm không.

131. công lý, công pháp: theo tập quán khí công thời bấy giờ, công pháp là để nói về động tác bài luyện công, và công lý là nói về lý thuyết cơ lý.

132. thủ đức: giữ gìn đức; thủ → giữ.

133. cực lạc: sung sướng.

134. vu giáo, vu thuật: những thứ như thầy mo, lên đồng,…; giáo → tôn giáo, giáo phái; thuật → phép thuật, kỳ thuật. Nguyên từ vu trong tiếng Hán thượng cổ là nói về một bộ các thứ riêng cụ thể, nhưng đã thất truyền từ lâu, phần lưu hành không còn là gốc xưa nữa; ngày nay từ vu thường là để chỉ chung những thứ như thầy mo, thầy cúng, lên đồng,…

135. khiêu đại thần: tựa như nhảy đồng, lên đồng ở Việt Nam; khiêu → nhảy.

136. nội tu, ngoại tu: tu trong và tu ngoài (diễn theo nghĩa bề mặt).

137. sư phụ lĩnh tiến môn, tu hành tại cá nhân: sư phụ dẫn vào cửa, tu luyện là ở cá nhân mình.

138. lý: dặm, 500m.

139. quỷ hồn: hiểu là sinh mệnh cõi âm; dân gian vẫn hiểu ‘âm dương nhãn’ là nhìn được quỷ hồn, nhìn được cả hai cõi âm dương.

140. thất tình lục dục: 7 tình và 6 dục (ham muốn), là nói chung các thứ tình cảm ham muốn; lục dục → 6 ham muốn ứng với 6 giác quan của người ta (trong đó tư duy cũng được tính là một giác quan).

141. dẫn hỏa thiêu thân: (thành ngữ) dẫn lửa đốt mình, tự vướng vào tình huống bị công kích.

142. dị khúc đồng công: (thành ngữ) khúc [nhạc] khác nhau nhưng cùng công [kỹ], ngụ ý là các phương pháp khác nhau nhưng giống nhau về hiệu quả hay kết quả, hoặc biểu đạt cùng một thứ nhưng với cách thức khác nhau.

143. quá liễu giá cá thôn khả một hữu giá cá điếm: (thành ngữ) qua thôn này thì không còn quán trọ thế này nữa đâu, ý là cơ hội chỉ có vậy.

* * * * * * * * *

Dịch từ bản gốc tiếng Hán; có tham khảo bản tiếng Anh.
Dịch lần đầu tháng 9-2016; hiệu chỉnh tháng 4-2017.

Đây là bản lưu hành trên Internet, chỉ để phục vụ cho học viên sử dụng, đọc, lưu trữ, in,… với mục đích tu học cá nhân. Không tự ý dùng bản này để in ấn phát tán mà không xin phép.